Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)
The Paphiopedilum parishii complex (Phức hệ)
Có 3 dòng trong phạm vi phức hệ này đã được mô tả ở cấp độ loài Paphiopedilum parishii, được mô tả bởi con trai của Reichabach, Paph. dianthum vào năm 1869, được công bố bởi Tang & Wang vào năm 1940, và Paph. aranianum được công bố bởi Aree Petchleung (Huang Rong Shu) năm 2009. Paphiopedilum aranianum với Paph. dianthum là đồng nhất.
Các cây thuộc Paph. dianthum và các cây thuộc Paph. parishii khác nhau ở chỗ Paph. dianthum hoa hơi lớn hơn, lưỡi mèo bóng hơn và có màu xanh đậm hơn, hình côn rõ hơn ở môi, và các bầu nhụy nhẫn mịn hơn. Bên cạnh đó, vòi hoa của Paph. dianthum vươn lên với 2 – 5 hoa, trong khi đó Paph. parishii có vòi hoa uốn cong với 8 – 10 hoa, và hai loài này có nhiễm sắc thể khác nhau rõ rệt. Điều này cho thấy rõ ràng là cả hai dòng này đều ở cấp độ loài, và mặc dùcả hai dòng này được Hội Làm vườn Hoàng gia đưa vào chỉ với mục đích để đăng ký mà thôi, ngày nay Paph. dianthum được coi là một loài riêng biệt.
78) Paphiopedilum parishii (Reichenbach fil.) Stein
Tên cũ
Cypripedium parishii Reichenbach fil.
Trùng tên
Selenipedium parishii E. André
Cordula parishii (Reichenbach fil.) Rolfe
Dẫn nhập
Ghi điểm cho Reverend C. Parish, ông là người đã tìm thấy loài này vào năm 1859 khi chúng mọc phụ sinh trên mộ rễ cây mục của một loài dương sỉ tên là Drynaria quercifolia ở Moulmein của Myanmar. Cây đầu tiên đến được nước Anh vào năm 1868, trong muốn chuyến hàng nhập về bởi vườn ươm Low of Clapton (UK).
Không thể lầm lẫn Papiopedilum parishii với bất cứ loài nào khác trong phạm vi của giống này (ngoại trừ Paph. dianthum), nhưng người ta vẫn phân biệt được bởi màu sắc của hoa và hình thái học, đặc biệt là các cánh hoa gập lại và quăn.
Cũng như hầu hết những loài được Reverend Parish phát hiện ra, loài này cũng được mô tả bởi con trai của Reichenbach.
Nguồn gốc tên gọi
Loài này được đặt tên là parishii để vinh danh Reverend Charles Samuel Pollock Parish (1822-1897) một nhà truyền giáo ở Myanmar.
Mô tả
Paphiopedilum parishii có nguồn gốc thảo mộc. Lá hình lưỡi thuôn, dài tới 40 cm, rộng 6,5 cm, ở đỉnhh lá có hai thùy hoặc hai răng, lá màu xanh bóng và sáng. Vòi hoa dựng đứng cao tới 60 cm, cứng cáp, màu xanh sáng và đầy lông tơ. Mỗi vòi hoa thường có từ 4 đến 8 hoa. Lá bắc dài chừng 4 cm, hình ô-van, đầu nhọn, và che phủ ba phần tư chiều dài của các bầu nhụy. Hoa cao tới 17,5 cm và đo chiều ngang được 12 cm. Lá đài sau dài từ 3 đế 5 cm và rộng đến 2,5 cm, hình ê-lip thuôn, đầu nhọn, mặt sau có đường sống gân. Nửa trên của lá đài sau uốn cong về phía trước và diềm hai bên cuộn ra ngoài ở phần chân. Các vân của lá đài sau màu xanh vàng xỉn. Lá đài kép cũng tương tự như lá đài sau nhưng nhỏ hơn và có hai đường sống gân. Các cánh hoa có đường kẻ dài, quăn, dài chừng 12,5 cm và rộng 1,2 cm. Phần chân của cánh hoa dang sang hai bên, nhưng rồi đột ngột chúc xuống và trở thành gợn sóng. Cũng là phần chân của cánh hoa, chúng có màu xanh, phần mép quăn lại có những chấm gần như đen. Nửa giữa gần ngoại biên có màu đỏ đậm ngả đen, ra đến diềm thì nhạt hơn. Môi có hình dạng như cái mũ kết lật ngược, với một cái miệng rộng, dài tới 4,5 cm, nó có màu xanh đậm ánh lên màu đỏ pha nâu. Hai thùy bên của môi trơn bóng, cuộn vào trong, màu xanh đậm, có những mảng màu đỏ ngả nâu. Miếng nhụy lép thuôn dạng trứng ngược, mép phía trước có một khe và có một mẩu như cái răng ở chân. Màu của miếng nhụy lép là vàng có vân xanh.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Paphiopedilum parishii mọc ở vùng cao nguyên Shan thuộc Myanmar và ở vùng núi tiếp giáp với phía tây và phía bắc Thailand, ở độ cao 1.250 đến 1.400 m, và người ta cũng cho biết chúng còn mọc ở miền tây nam tỉnh Vân Nam, Trung quốc. Thường người ta tìm thấy chúng ở triền núi hướng về phía đông ở đó có bóng râm và ánh sáng cũng không gắt. Chúng mọc trên các cành cây thấp và trung bình, cách mặt đất từ 3 đến 5 m như những loài Lan biểu sinh (phong lan), song đôi khi người ta cũng tìm thấy chúng mọc ở những chỗ có rêu dầy hoặc trên rễ cây dương sỉ.
Mùa hoa
Cây lan Paphiopedilum parishii ra hoa gần như quanh năm. Mùa cao điểm có thể kéo dài từ tháng Năm đến tháng Bảy.
Biến loài và biến thể
Cách đây vài năm, có thấy một tấm hình chụp cây Paphiopedilum parishii với những cánh hoa không rộng và cũng không quăn được ghi là chúng được tìm thấy chung quanh cộng đồng Paphiopedilum (Paphiopedilum community). Đồng thời, chúng tôi đã tìm thấy người trước đây sở hữu chúng, họ cho biết rằng nó đã được cho lên thiên đàng rồi./.