Phân giống (Sub-genus)Polyantha (Tiếp theo)
Paphiopedilum lowii complex
Paphiopedilum lowii phức hệ (complex) gồm có Paph. lowii, Lindley (1847) đã từng mô tả; Paph. richardianum được Asher & Beaman mô tả vào năm 1988; và Paph. lyniae được công bố vào năm 1996 bởi Garay.
Các cuộn bàn luận vẫn còn tiếp tục về hai dòng lan nói ở đoạn trên, và tất nhiên vẫn có nhiều ý kiến trái chiều có thể được dùng để điều chỉnh cả hai loài Paph. lynniae và Paph. richardianum là biến loài của Paph. lowii. Mặt khác, vẫn tồn tại sự khác biệt, và vấn đề là nên xếp các cây đã được mô tả vào dạng nào.
Gruβ và Cribb đã coi Paph. richardianum và Paph. lynniae là biến loài của Paph. lowii vào năm 1997.Trong bản đánh giá năm 1995 của Koopowitz, Paph. richardianum cũng được coi như một biến loài của Paph. lowii, nhưng ông lại coi nó như một loài riêng biệt vào năm 1912 . Sự khác nhau giữa Paph. richardianum, Paph. lynniae, và Paph. lowii cũng là quan trọng giữa những loài này, ví dụ khi so sánh giữa Paph. hookerae và Paph. Paph. volonteanum hoặc giữa Paph. praestans và Paph. wilhelminiae. Vì thế, chúng tôi cũng đã coi Paph. lynniae và Paph. richardianum là những loài riêng biệt trong cuốn sách này.
75) Paphiopedilum lowii (Lindley) Stein
Tên cũ
Cypripedium lowii (sic.) Lindley
Trùng tên
Cypripedium cruciforme Zonllinger & Morren
Cordula lowiana (Lindley) Rolfe
Dẫn nhập
Paphiopedilum lowii lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1864 ở châu Âu bởi Hugh Low, một người làm điều dưỡng nổi tiếng của nước Anh. Trong một cuộc thám hiểm đến núi Kinabalu ở miền bắc Borneo, loài cây này đã được Low đã tìm thấy như một loài biểu sinh nơi có lá cây mục, ông cho biết: “chúng mọc trên các cành và trên các hốc cây cao trong những khu rừng già”. Cây ra hoa lần đầu tiên là cây Lan trong bộ sưu tập của Kenrick, và John Lindley đã dùng cây này để mô tả để vinh danh người đã phát hiện ra nó. Bình nguyên Pinosok là nơi đầu tiên tìm thấy loài Lan này, vào năm 1984 thì nơi này đã bị phá hoại, khi đó một khu vực khá lớn đã được chuyển rời khỏi công viên Kinabalu để khai thác gì đó.
Nguồn gốc tên gọi
Tên lowii được đặt để vinh danh ngài Hugh Low (1824-1905) nhà tự nhiên học và cũng là người quản trị thực dân.
Mô tả
Paphiopedilum lowii có nguồn gốc từ thảo mộc, chúng thường mọc nơi có lá cây mục. Lá của nó chỉ có một màu xanh, hình chữ nhật, đầu tù, mọc hơi chếch lên, lá dày và ở diềm có thứ giống răng cưa, phần chân lá cuộn vào trong, có một đường xoi, ở mặt trên lá, và đường sống gân nổi rõ ở mặt dưới. Lá có kích thước dài 40 cm, rộng 5,5 cm. Lá đầu tiên và lá mọc cuối cùng nhỏ hơn những lá khác. Đầu lá có hai thùy không đều nhau tạo thành hai răng tù và hình dạng cũng không giống nhau. Cán hoa có thể cao tới 1m, màu xanh sáng đến màu đỏ nâu, lông cứng được phủ kín. Có tới 6 hoa trên mỗi cán hoa, hiếm khi có 7 hoa. Lá bắc của hoa che phủ 1/3 đến 1/2 cái bầu nhụy, bầu nhụy thường dài từ 6,5 đến 8 cm, lá bắc có màu xanh pha vàng đến đỏ tía, lông cứng được phủ đầy. Hoa có thể dài được tới 16 cm khi dang rộng ra, và thường cao tới 9 cm. Lá đài sau hình ovan rộng, đầu nhọn và ngắn, dài 4,5 cm, rộng 3,5 cm. Ở phần chân mép đối xứng nhau, nửa trên của lá đài lõm lòng chảo và uốn cong về trước. Từ chân lên nửa trên lá đài có những kẻ sọc màu vàng đến màu xanh rượu chát. Lá đài kép tuy hẹp hơn nhưng dài bằng lá đài sau, cũng lõm lòng chảo, đứng cách xa môi hoa, đôi khi có tới hai đầu lá, và đôi khi chúng lại tách ra thành hai lá đài bên. Các cánh hoa dài 6 đến 9 cm, rộng 1,5 đến 3 cm, giống như cái muỗng, xòe rộng sang hai bên và hơi uốn cong xuống phía dưới, đồng thời mặt trước xoắn lại cho đến nửa trên của cánh hoa. Màu xanh pha vàng ở phần chân của các cánh hoa, điểm thêm những chấm nâu có hình như con mắt. Phần đỉnh của cánh hoa có màu tím đến màu hồng, rộng hơn nhiều. Môi với bầu nhụy tạo thành một góc 90 độ , giống như cái túi sâu, dài tới 6cm, miệng túi rộng 3 cm. Màu của môi là nâu ngả xanh đến nâu đậm, có thể thấy rõ những đường vân màu đậm hơn. Hai thùy bên của môi cuộn vào bên trong, tạo thành hình ống. Môi có màu nhạt hơn và có thêm những chấm nâu. Miếng nhụy lép với những lông đỏ tía hình trái tim lộn ngược. Phần chân có một thứ giống cái sừng nhỏ hướng lên trên, cũng có nhiều lông màu đỏ tía, phần đầu tạo thành cái khe với cái rằng đầu tù. Tấm nhụy lép dài 1 cm, rộng 7 mm, màu kem đến vàng và ánh lên màu nâu từ phần thấp hơn đến tâm.
Phân bố và thói quen sinh trường
Paphiopedilum lowii được tìm thấy ở Sumatra, bán đảo Malay, Borneo, Java và Sulawesi. Loài lan này thường mọc trên thân cây với nhiều rễ và các hốc cây có chứa lá mục, giống như loài Lan biểu sinh. Đôi khi chúng mọc trên vách đá hướng ra biển với rễ của nó luồn xuống dưới rêu hoặc các hốc đá chứa mùn. Cây thường sống ở nơi gần nguồn nước hoặc ở nơi thường có mưa nhiều, đồng thời cũng mọc ở nơi có nhiều ánh sáng, đôi khi là ở nơi chiếu sáng suốt một phần thời gian của ngày. Chúng thường mọc trên độ cao 700 đến 1.400 m, nhưng được biết chúng mọc ở cao trình thấp chừng 250 m, và ở độ cao 1.600 m.
Mùa hoa
Cây Paphiopedilum lowii ra hoa quanh năm. Mùa hoa cao điểm là từ tháng Hai qua tháng Năm.
Biến loài và biến thể
Paphiopedilum lowii forma aureum (Cribb) Crib