Paphiopedilum haynaldianum

Paphiopedilum haynaldianum
Đánh giá

Phân giống (Sub-genus)Polyantha

Lời người dịch: Có tất cả 25 loài thuộc phân giống Polyantha. Loài đầu tiên của phân giống này là loài Paph. haynaldianum mà tôi đã đánh dấu ở bài số 74.

74) Paphiopedilum haynaldianum (Reichenbach fil.) Stein

Tên cũ

Cypripedium haynaldianum Reichenbach fil.

Trùng tên

Cordula haynaldianum (Reichenbach fil.) Rolfe

Dẫn nhập

Paphiopedilum haynaldianum được tìm thấy vào năm 1870 bởi Gustav Wallis, ở San Isidro gần Manila trên phần lục địa đảo chính Philippine thuộc Luzon. Loài lan này được Veitch giới thiệu đến châu Âu. Cây mẫu đã được chuyển cho H.G.Reichenbach, chính là người đã mô tả là một loài trong tập hai của cuốn sách Xenia Orchidacea của ông ấy. Paphiopedilum haynaldianum và Paph. lowii có quan hệ gần gũi với nhau, nhưng ở Paphiopedilum haynaldianum có điểm khác là chỗ miếng nhụy lép được kéo dài hơn, hình dạng cũng khác; các cánh hoa rộng hơn và có thêm những chấm; ở phần chân của cánh hoa màu sắc cũng khác; hai thùy bên của môi rộng hơn, cuộn vào trong. Lá dày hơn. Vị trí của môi cũng khác, nó có liên quan đến trục của vòi hoa. Tại đó, môi hướng xuống phía dưới.

Paphiopedilum haynaldianum có quan hệ gần gũi với Paph. lowii, mặc dù nó chỉ được biết đến từ Philippinesloài đề cập sau lại xuất hiện ở Borneo, Sulawesi, quần đảo Maly (Malay Archipelago) và bán đảo Malaysia.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên haynaldianum để vinh danh Cardinal Lajos Haynald (1816-1891), Hồng y của Kalocsa-Bács, Hungary, ông ta là một nhà thực vật nghiệp dư.

Mô tả

Paphiopedilum haynaldianum có nguồn gốc thảo mộc, chiều dài lá đến 30 cm, rộng 4,5 cm. Lá có hình chữ nhật đến ê-lip hẹp, mọc hơi chếch lên, màu xanh nhạt, có hai thùy rõ rệt tại đỉnh lá. Diềm của lá lên đến tận đầu lá có răng cưa cứng, ráp và rất sắc. Có các đường sống gân cứng ở mặt dưới của lá. Vòi hoa có màu nâu, dài tới 75 cm, và được phủ một lớp lông dài. Dài bằng một nửa bầu nhụy, lá bắc của hoa chừng 4 đến 6 cm, có rất nhiều lông ở cả lá bắc và các bầu nhụy. Mỗi vòi hoa thường có từ 2 đến 8 hoa, đôi khi có đến 12 hoa, trong tự nhiên có khi đến 13 hoa. Đặc biệt có khi có tới 16 hoa ở những cây sinh sản vô tính. Lá đài sau dài 6 cm và rộng khoảng 4 cm, hình ô-van kéo dài ra, đầu nhọn, diềm quăn vào trong chiếm gần hết chiều dài, màu xanh vàng, với những chấm to màu nâu chạy dọc theo các đường vân. Lá đài kép hình ô-van rộng, màu trắng với những đường vân xanh chạy theo chiều dọc, có hai sống gân. Các cánh hoa dài 9cm, rộng khoảng 1,5 đến 2cm, nhìn giống như cái muỗng. Chúng vươn sang hai bên rồi cuộn lại xuống dưới, cong lên ở phần ngoại biên, phần diềm dưới thấp cong xoắn lên phía trước. Ở nửa phần chân là các cánh hoa màu xanh vàng, có đến 12 vạch, chấm hoặc đốm. Phần ngoại biên còn lại màu đỏ tía, được mở rộng ra. Môi hình dạng giống cái mũ kết lật ngửa, hướng xuống dưới, dài 5 cm, rộng 2,7 đến 3,9 cm, với cái miệng rộng. Môi có màu ngả xanh ánh lên màu nâu tía. Các thùy bên cuộn vào trong, có màu trắng ngà nhẵn bóng . Miếng nhụy lép hình ô-van kéo dài với một răng cưa có lông ở chân. Có một khía sâu màu xanh ở phần đầu, màu xanh đậm hơn chung quanh đường khía.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum haynaldianum được tìm thấy trên đảo Negros và Luzon thuộc Tarlac, trên núi và Rizalở Philippines. Loài này mọc trên cao cách mặt nước biển 1.400 m, trên các tảng đá granite, trên đồi có đá vôi, hoặc trên các chạc hai chạc ba nơi tích tụ các lá mục của cây lớn.

Mua ra hoa

Paphiopedilum haynaldianum được biết là loài ra hoa quanh năm. Cao điểm là từ tháng Hai qua tháng Tư. Hoa thường chỉ xuất hiện ở những thân già có tuổi hai hoặc ba năm.

Các biến loài và biến thể

Paphiopedilum haynaldianum forma album (Asher) Braem.

Trả lời

0988110300
chat-active-icon