Paphiopedilum hookerae (tt)

Đánh giá

Paphiopedilum hookerae (Reichenbach fil. Ex Hooker fil.) Stein

Tên cũ

Cypripedium hookerae Reichenbach fil. Ex Hooker fil.

Trùng tên

Cypripedium barbatum var. hookerae Regel

Cordula hookerae (Reichenbach fil. Ex Hooker fil.) Rolfe

Dẫn nhập

Paphiopedilum hookerae được Hugh Low thuộc công ty Low & Co phát hiện vào năm 1862 ở Bắc Borneo (nay gọi là Sabah), và ngay sau đó những người trồng lan ở châu Âu đã được biết đến. Đến ngày nay vẫn còn là một bí mật vì họ không tiết lộ chính xác nơi đã được phát hiện ra loài này. Đôi khi người ta phát hiện ra chúng ở triền núi đá vôi, mọc cùng với Paphiopedilum stonei do những người làm việc cho Veitch ở Sarawak tìm thấy,nhưng cụ thể ở địa điểm nào thì cũng  không ai biết.

Trong Tạp chí Curtis’ Botanical do Reichenbach có tài liệu  miêu tả đặc trưng bằng tiếng Latin,  trong đó chúng ta nên tin là của Joseph Dalton Hooker (Hooker fil.), ông này đã sử dụng các ghi chép của Reichenbach. Trong bản phân loại do Younger Reichenbach mô tả được đề tặng phu nhân Hooker, vợ giám đốc của Vườn Thực vật Hoàng gia của William Jackson Hooker ở Kiew năm 1865, thì hầu hết đều do ông Low yêu cầu. Hai tác giả đối với lần xuất bản đầu thật vinh dự, khi đó được gọi là Cypripedium hookerae, và khi lập nhóm thì nên trích dẫn như là C. hookerae Reichenbach fil. Ex Hooker fil., và hoặc là Paph. hookerae (Reichenbach fil. Ex Hooker fil.) Stein.

Cây lan được mô tả như là Cypripedium hookerae var. bullenianum (Reichenbach fil.) nói chung, ngày nay nên gọi là một loài riêng biệt, và nên gọi là Paphiopedilum bullenianum. Sự giải thích Paphiopedilum hookerae như là một biến loài của Paphiopedilum barbatum như Regel thì không ghi gì nữa mà chỉ là sự nhớ nhầm.

Paphiopedilum hookerae đã thành công trong nuôi trồng. Ít lâu sau kể từ khi Low và Veitch nhập về lần đầu (từ Sarawak, vào năm 1865). loài này không còn thấytrong tự nhiên, và từ đó không thấy ai nhập về, cho đến tận năm 1972. Bây giờ nó vẫn là một những loài có giá trị nhất trong giống Paphiopedilum.

Nguồn gốc tên gọi

Để vinh danh phu nhân Maria Sarah Hooker, vợ của Sir William Jackson Hooker và bà mẹ của Sir Joseph Dalton Hooker nên đã đặt tên là hookerae

Mô tả

Paphiopoedilum hookerae là một loài thảo mộc,  chúng ưa mọc ở những thân gỗ mục. Lá của loài này hình thuôn dạng ê-lip, mặt dưới của lá thường ánh lên  màu đỏ, màu xanh sâu, nổi bật những vân màu xanh ngả xám đến màu xanh ngả vàng. Chiều dài của lá tới 25 cm, rộng 3,8 đến 5,2 cm, thông thường mép lá cuộn vào phía sau, lá dai và mập. Vòi hoa cao chừng 20 đến 55 cm,bao phủ bởi một lớp lông màu xám, thường trên mỗi vòi hoa chỉ có một hoa, màu đỏ tía pha nâu. Lá bắc hình mũi mác,rộng khoảng 1,5 cm, đầu nhọn dài 2 đến 3 cm. Lá bắc che phủ một phần bầu nhụy, có lông mịn và dài chừng 5 cm, bầu nhụy có màu xanh sáng, . Đo chiều cao 6,5 đến 7,5 cm, ngang của hoa được 10 cm. Lá đài sau rộng 2,3 đến 3 cm, dài 3 đế 4 cm, đầu nhọn, đôi khi có những đường kẻ màu trắng ngả vàng, phần tâm ngả xanh, hình ô-van đến hình trái tim, mặt trái có lông và đường sống gân ở giữa lộ rõ. Lá đài kép thì nhỏ hơn, rộng 1,5 đến 2,2 cm, hình ô-van, màu xanh ngả vàng xỉn, chỉ dài từ 2 đến 3 cm. Các cánh hoa giống như cái thìa, phần chân hẹp và có phần gợn sóng, hơi ép lại. Các cánh hoa màu xanh, riềm màu tím đỏ, với những chấm gần như là đen . Mỗi cánh hoa rộng 1,5 đến 2,2 cm,dài 4 đến 5,5 cm. Cái túi giống như cái mũ kết để ngửa. Phần trên của túi màu dài 3,7 đến 4,3 cm, rộng khoảng 1,8 cm ô liu đậm, phần dưới của túi có màu đỏ nâu pha xanh. Hai thùy màu nâu pha vàng với những chấm màu đỏ tía  gập vào trong tạo thành cái ống. Miếng nhụy lép có kích thước tương đương với các phần khác của hoa và tương xứng với kích thước toàn bộ của hoa, có đường kính chừng 1 cm. Đường riềm của các cánh hoa có những chấm nổi rõ ở cả hai mặt màu nâu đỏ

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Phía tây Borneo. Các cây Lan này được tìm thấy ở Sarawak và trên sườn núi phía bắc, miền tây Kalimantan ở độ cao 300 – 800 m. Paphiopedilum hookerae mọc ở các vách đá nhô ra biển, có thể là đá sa thạch và cũng có thể là đá vôi, dưới bóng cây, bên dưới các đồi thấp. Người ta tìm thấy chúng trong ở các khe đá đã được phủ đầy rêu, hoặc các đám lá mục dầy dưới các gốc cây, ở đó độ ẩm được duy trì liên tục.

Mùa ra hoa

Trong các vườn trồng Paphiopedilum hookerae thường được đề cập ở đây lại ra hoa từ tháng Giêng qua tháng Tám. Những cây trưởng thành và khỏe mạnh không chỉ ra hoa một lần trong một năm.

Biến loài và biến thể

Có mười một biến loài của Paphiopedilum hookerae được  mô tả. Bốn loài khác không có lời mô tả cũng như minh họa nào mặc dù đã được in vào sách, và chính vì thế mà không thể xác định. Ba trong số các biến loài khác được coi như là Paphiopedilum bullenianum. Chúng tôi căn cứ vào bản mô tả của cây sau cùng dựa trên cây có “các cánh hoa mở rộng sang hai bên” và hai cây mẫu đã ra hoa

Trả lời

0988110300
chat-active-icon