Paphiopedilum elliottianum

Paphiopedilum elliottianum
Đánh giá

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

82) Paphiopedilum elliottianum (O’Brien & Gower) Stein

Tên cũ

Cypripedium elliottianum O’Brien

Selenipedium elliottianum Gower

Trùng tên

Papiopedilum rothschildianum var. elliottianum (O’Brien) Pfitzer

Dẫn nhập

Điều bí ẩn của Paphiopedilum elliottianum, một trong những vấn đề đầu tiên khi tham gia vào việc làm rõ giống phụ Polyantha trong giống Paphiopedilum. Dòng lan này đã từng là chủ đề của nhiều nghiên cứu và ấn phẩm, và cũng không có ai theo đuổi vấn đề cho đến nơi đến chốn, vì thế mà câu chuyện vẫn còn bỏ dở. Cây này đã được mô tả ba lần bởi ba tác giả khác nhau, tất cả đều dùng cùng một tên gọi. Vào ngày 3 tháng Mười một, 1888, ông J. O’Brien đã công bố một bài viết trong tạp chí The Gardeners’ Chronicle với tiêu đề Cypripedium elliottianum, n. sp. Cũng ngày hôm đó, W. H. Gower đã công bố một bài viết trong tạp chí The Gardener dưới tiêu đền Selenipedium elliottianum. Cả hai bản mô tả đều được dựa trên các cây trong cùng một loài, lại trong cùng một lô hàng được nhập về bởi nhà trồng lan nổi tiếng Sander & Co. Cả hai bản công bố đều có giá trị, và từ đó không thể xác định giữa hai bản công bố, nên ưu tiên bản nào, sự phân loại có khi nên đặt ưu tiên cho cả hai tác giả. Vào ngày 10 tháng Mười một, 1888, cũng với cây đó lại một lần nữa được H. G. Reichenbach (Reichenbach fil.) mô tả là C. elliottianum, n. sp. trong tạp chí The Garderners’ Chronicle. Bản mô tả thứ ba này , do nguyên tắc về thứ tự ưu tiên, đã không được đưa vào phân loại.

Cypripedium elliottianum O’Brien & Gower được Stein chuyển vào giống Paphiopedilum trong tạp chí Stein’ Orchideenbuch vào năm 1892. Vào năm 1903, Pfitzer đã hạ cấp xuống nó là biến thể của Paph. rothchildianum.

Hiện nay, khi loài Lan này được coi như Paph. adductum đã được tìm thấy, cả Fowlie (1980) và Asher (cuối năm 1980) đã cho rằng, loài Paph. elliottianum bị thất lạc từ lâu thì nay đã tìm thấy. Hơn nữa, sau đó vào năm 1983, Asher đã xem lại và kết luận rằng, đó là loài mới đối với khoa học và mô tả nó như là Paph. adductum và đưa Paph. elliottianum xuống thành cùng loài với Paph. rothschildianum, là cách nhìn nhận từ hầu hết các tác giả, kể cả Cribb (1987) và Koopowitz (1995). Hơn nữa, Braem (1988) bảo lưu ý kiến rằng Paph. elliottianum không có lý do gì mà đưa vào cùng loài với Paph. rothschildianum và đã xử lý nó như một loài có giá trị, điều này phù hợp với quan điểm đầu tiên của Fowlie (1980).

Vậy Paphiopedilum elliottianum là gì? Câu trả lời có thể được tìm thấy trong một tạp chí ở các văn kiện gốc. Các bản mô tả của O’Brien vào năm 1888 và Gower (1888) không đưa ra một lý do nào để kết luận rằng Paph. elliottianum cũng chính là Paph. rothschildianum, O’Brien đã viết như sau,

“… Cây này thuộc giống quý, giống với C. stonei… Cái bầu nhụy dài 2 inch mang bông hoa rất đẹp, điều đó làm gợi nhớ đến C. rothschildianum và C. praestans, cả hai loài này được nổi tiếng khắp nơi… Cái môi của nó thì gần giống với C. stonei về màu sắc và hình dạng, và cũng có nếp gấp ở mặt dưới… Các cánh hoa cũng trắng như vậy, mặt trên có những chấm màu đỏ thẫm, những chấm đó tạo thành ba hoặc bốn đường kẻ hẹp lên tận đỉnh, phần trên thấy như sáp và lông tơ, đặc điểm này lại thấy nhiều ở C. sanderianum. Miếng nhụy lép, trừ khi bất bình thường, còn thì chúng hẹp và cuộn xuống phía dưới, như cây C. rothschildianum”.

Bản mô tả của Gower mà chúng tôi tìm thấy như sau,

“… cánh hoa rộng ở phần chân, được kéo dài tới tận chỗ giống cái tai. Trong cây mẫu trước, tôi thấy cánh hoa dài chừng 4 inch, nhưng với cây này… bị hạn chế vì hư hỏng, và vì thế tôi mới tưởng tượng ra đó là một trong những loài có cái tai dài nhất của các loài hài phương đông… Miếng nhụy lép trông rất kỳ dị, nó uốn cong xuốn phía dưới như mỏ chim, ở đỉnh có hai thùy…”

Trong ấn phẩm của Reichenbach năm 1888 không cho biết thêm bất kỳ đầu mối nào để định danh cây Lan, nhưng ông ấy lại có một câu kết khá thú vị, “Thật là thành công cho một công ty (Sander & Co.) đã nhập về trong một thời gian ngắn như vậy được các cây Cypripedium sanderianum, rothschildianum, và elliottianum.”

Trong khi đó O’Brien (1888) và Gower (1888) đã tuyên bố rằng các cây Lan có nguồn gốc từ Philippines, Reichenbach không đưa ra bất kỳ thông tin nào về lai lịch của C. elliottianum. Từ ba đoạn mô tả trên, chúng ta có thể rút ra kết luận như sau:

  • 1) Cả ba dòng mô tả của ba tác giả nói trên đều không coi elliottianum được định danh là Paph. rothschildianum. Dùng những từ như là “giống như”, “giống với”, và “làm cho phải nhớ đến” không có nghĩa là các tác giả coi các cây này là một loài, và cũng không nên nhấn mạnh những thuật ngữ này. Thí dụ trong phần mô tả về Paph. sanderianum, Reichenbach (1886) đã viết, “đó là một sự liên kết gần với Cypripedium laevigatum (tên cũ của nó là philippinense) và roebeleini.
  • 2) Cả O’Brien và Reichenbach đều đã biết về rothschildianum. Đương nhiên là thế, trong phần mô tả của Reichenbach vào ngày 14 tháng Tư, 1888, chỉ sáu tháng trước khi đưa ra phần mô tả về Paph. elliottianum. Cả hai tác giả đều căn cứ vào hai phần mô tả của họ về cây Paph. elliottianum. Ngoài ra, thật là hợp lý để kết luận rằng Gower cũng đã làm quen với Paph. rothschildianum.
  • 3) Thật khó mà tưởng tượng được rằng Sander & Co. và tất cả tác giả lại không nhận ra cây Lan sanderianum hoặc Paph. rothschildianum.

(Còn tiếp)

Trả lời

0988110300
chat-active-icon