Paphiopedilum superbiens

Paphiopedilum superbiens
Đánh giá

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

65) Paphiopedilum superbiens (Reichenbach fil.) Stein

Tên cũ

Cypripedium superbiens Reichenbach fil.

Cùng loài

Cypripedium barbatum var. veitchii Van Houte

Cypripedium veitchianum Hort. ex Lemaitre

Cypripedium barbatum var. superbum Morren

Cordula superbiens (Reichenbach fil.) Rolfe

Dẫn nhập

Paphiopedilum superbiens được Reichenbach fil. mô tả lần đầu tiên dựa trên cây Lan được Rollison đưa về Anh, và sau đó được Consul Schiller mua ở Hamburg. Cây thứ hai được tìm thấy nơi ở của Veitch vào năm 1857, trong chuyến hàng vận chuyển loài Paph. barbatum. Theo Kent (ở chỗ Veitch, năm 1889), tất cả các cây được biết là chúng vẫn hiện hữu trong nơi nuôi trồng cho đến năm 1889, nguyên là được tách ra từ hai cây mẫu. Dù sao, không thể dựa vào các cây mẫu để coi là chuẩn mực trong việc nuôi trồng nó như cây Cypripedium barbatum.

Cây nguyên thủy được Rollison nhập về, song cũng chẳng ai biết nó là loài gì. Điều đó có lẽ là do người nào đó đã tìm thấy nó trong số các cây của Veitch, mà người ta đã tìm thấy nó ở vùng núi Sumatra.

Vào năm 1882, Charles Cirtis, đang đi sưu tập lan cho Veitch & Sons, đã phát hiện ra một lượng lớn của giống paphiopedilum ở Miền tây Sumatra, rồi cây này trở thành khá phổ biến trong các bộ sưu tập ở châu Âu. Các cây này rất giống nhau về cấu trúc với cây Paph. superbiens, song các cây do Curtis sưu tập có hoa nhỏ hơn một chút và các cánh hoa hơi ngắn hơn, vì những lý do đó mà Reichenbach đã mô tả chúng như một loài riêng biệt dưới cái tên Cypripedium curtisii. Vào năm 1998, Braem đã chuyển ý kiến của mình cho Reichenbach, gọi đó là Paph. superbiens var. curtisii, tiếp theo cách nhìn của Koopowitz (1995, 2000, 2012) và Cribb (1998). Paph, superbiens và Paph, superbiens var. curtisii khác nhau về số nhiễm sắc thể cũng như khác nhau về loại karyo, song đối với lan thì điều này không cần đề cập đến để nói rằng nó là một loài khác.

Trong nuôi trồng, cái tên Paph. curtisii chiếm ưu thế hơn, mặc dù những nhà trồng lan thương mại có tiếng đã nói một cách công khai rằng Paph. curtisii cần phải được hiểu rằng Paph. curtisii chính là một biến loài của Paph. supperbiens.

Hầu hết những cây Lan mẫu về Paphiopedilum superbiens được nuôi trồng hiện nay đều có nguồn gốc từ chung quanh khu vực Lake Toba, thuộc phần phía bắc của Sumatra. Một vài cây nhân bản vô tính với các cánh hoa màu xanh khá đẹp đã được sưu tập quanh núi Gunnung (núi) Kurinchi ở gần như trung tâm của dẫy núi  chạy song song với bờ phía tây của Sumatra.

Nguồn gốc tên gọi

Tên superbiens đặt theo vẻ đẹp cũng như kích thước của hoa.

Mô tả

Paphiopedilum superbiens là một loài thảo mộc, thường mọc nơi có lá mục trên mặt đất trong các khu rừng. Thân của cây Lan này ngắn, chỉ cao chừng 3 cm, thẳng đứng, mang trên nó từ bốn đến sáu lá. Lá của nó tồn tại trên thân tới ba năm. Chiều dài của lá tới 20 cm, rộng 8 cm, hình ê-lip đến hình ê-lipthuôn, đầu lá nhọn nhưng cũng có ba răng nhỏ, rải rác một ít lông tơ ở riềm thuộc phần gốc, mặt bụng có đường sống gân nổi lên, màu của lá là xanh xỉn ánh lên màu đỏ tía và trên nền này được khảm những mảng màu xanh đậm nhạt. Vòi hoa màu đỏ đậm, có lông ngắn, cả vòi hoa cao tới 30 cm, thường mỗi hoa chỉ có một hoa. Lá bắc của hoa dài khoảng 2cm, che phủ lên chừng một phần ba nhụy hoa. Lá đài sau dài chừng 6 cm, rộng chừng 5 cm, gần giống hình trái tim, nhọn đầu, có lông tơ, ở tâm có màu xanh, có những sọc chạy theo chiều dọc. Lá đài kép dài 3,5 cm và hẹp hơn lá đài sau, hình ô van, nhọn đầu, màu trắng với những sọc màu xanh. Các cánh hoa trông như những cái lưỡi, hình cong lưỡi liềm, đầu chúc xuống dưới, nhọn đầu, dài tới 7 cm, rộng 2,8 cm, màu hồng pha trắng với những đường kẻ màu đỏ tía và phủ trên nó là những mụn có  màu gần như đen, các mụn này to dần về phía riềm trên, các riềm đều có lông cứng. Môi giống như cái túi sâu, trông giống cái mũ kết lật ngược, dài tới 6 cm, và rộng khoảng 3,6 cm, màu đỏ đậm, có ba thùy, hai thùy bên cuộn lại với màu đỏ nhạt, có những mụn màu đen pha đỏ. Miếng nhụy lép cao 1 đến 1,2 cm, rộng trên dưới 2 cm, có hình như cái móng ngựa, viền trên có răng cưa, và có ba răng nhỏ ở phần cuối.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Miền trung về phía bắc đảo Sumatra. Paphiopedilum superbiens sống gần Padang trên triền núi trồng cây lấy gỗ, ở độ cao 900 đến 1.300 m. Loài lan này ưa sáng trong một nơi có nhiều mùn và ở đó có nhiều sỏi đá.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum superbiens ra hoa gần như quanh năm, mùa cao điểm là vào tháng Sáu và tháng Bảy.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum superbiens var. curtisii (Reichenbach fil.) Braem

Paphiopedilum superbiens var. curtisii forma sanderae (Cutis) Braem & Chiron.

Trả lời

0988110300
chat-active-icon