Paphiopedilum papuanum

Đánh giá

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

Paphiopedilum papuanum (Ridley ex Rendle) L.O. Williams

Tên cũ

Cypripedium papuanum Ridley ex Rendle

Trùng tên

Paphiopedilum zieckianum Schoser

Dân nhập

Paphiopedilum papuanum được Cecil Boden Kloss (1877-1949) phát hiện tại bộ sưu tập của Wollaston trong cuộc thám hiểm của ông ta đến New Guinea, vào khoảng năm 1913. Những mẫu vật mà ông ấy thu thập được đã bị khô, sau đó chuyển cho Ridley, người đã quyết định đưa mẫu này vào các mẫu về thực vật của cuộc thám hiểm. Trong số các mẫu vật, Ridley đã tìm thấy một cây Lan hài có cái tên là Cypripedium papuanum. Người ta cũng sưu tập được những mẫu vật còn sống và chuyển cho Baron Rothschild, là một trong những người cùng đi thám hiểm. Cây Paphiopedilum papuanum đầu tiên ra hoa trong nhà kính của Rothschild vào mùa hè năm 1915. Được Rendle đặt tên chính thức là C. papuanum trong tạp chí The Gardeners’ Chronicle xuất bản năm 1915 cùng với bản mô tả của Ridley đi cùng với một tấm ảnh về một cây đang có hoa. Năm 1946 L. O. Williams chuyển chúng sang giống Paphiopedilum. Trong bản mô tả bằng tiếng Latin, Ridley đã so sánh với dòng mới này với Paph. violascens, một loài khác cũng từ New Guinea được Schlechter mô tả ít năm trước đó. Có lẽ vì lý do này mà có nhiều cây Paph. violascens đã bị hiểu lầm trong nuôi trồng là cây Paph. papuanum.

Vào năm 1967, cây Paphiopedilum papuanum chính hiệu đã được Zieck và những người đồng hành của ông ấy phát hiện ở dẫy núi Arfak của Irian Jaya (phía tây New Guinea). Riêng ông Schoser lại nhìn nhận là cây này không đúng như vậy, và ông ấy đã mô tả nó như một loài khác, và đặt tên cho dòng này là Paph. ziekianum. Cây Paph. papuanum được trồng dưới cái tên này từ năm 1967, và cũng có khá ít cây Paph. papuanum được trồng dưới cái tên Paph. ziekianum, mặc dù cả hai khái niệm này đã được chứng minh là đồng nhất cách đây nhiều năm.

Hiệp hội Hoa lan Hoa kỳ đã tặng giải thưởng cho một số cây được xác định là Paph. papuanum, trong đó có cây Paph. papuanum ‘Penn Valley’ JC/AOS cũng được giải mà trong thực tế đó là cây Paph. javanicum. Thực tế những cây Lan được giải thưởng với cái tên Paph. papuanum (và nhiều cây khác) cần phải được kiểm tra lại. Cơ quan đăng ký lan (Orchid Register) của Hội làm vườn Hoàng gia (Anh) vào thời điểm biên tập cuốn sách này (2003) đã coi Paph. papuanum là cùng loài với Paph. violascens, một sai lầm ngay từ đầu khi mô tả nguồn gốc của nó. Như một kết quả, ít nhất có một vài cây lai cho thấy Paph. violascens là một cây cha mẹ trong cuốn List of Orchid Hybrids của Sander, có lẽ chúng sinh ra cây Paph. papuanum hoặc ngược lại. Đồng thời RHS đã liệt kê Paph. papuanum và Paph. violascens là hai loài riêng biệt. Sự hỗn loạn trong việc lai tạo giữa các cây cha mẹ chưa bao giờ là đúng, và chắc cũng sẽ mãi mãi không đúng.

Nguồn gốc tên gọi

Tên papuanum đặt cho Papua, tên nước của New Guinea, nơi sinh sống tự nhiên của loài lna này.

Mô tả

Paphiopedilum papuanum là một loài thảo mộc phát triển tới chiều cao 22 đến 25 cm. Mỗi cây thường có từ bốn đến sáu lá, lá hình thuôn, thịt dày và thường dài từ 7 đến 10 cm, rộng 2,5 cm. Đầu lá nhọn có ba khía, màu xanh xỉn với những vân xanh đậm ở mặt trên. Vòi hoa dài 15 đến 25 cm với màu đỏ thắm và có lông cứng. Lá bắc hình ô-van, có lông như vòi hoa, dài 1,4 cm. Cuống hoa và bầu nhụy màu xanh sẫm, đồng thời cũng có lông, dài chừng 5 cm. Lá đài sau hình trứng rộng, có đầu nhọn, màu xanh với năm hoặc sáu vân màu nâu đỏ đậm ở tâm, trên cả hai mặt. Lá đài sau có kích thước 2,6 cm chiều dài, rộng chừng 2 cm. Mặt sau của lá đài có nhiều lông và lông tơ dọc theo mép của nó. Các lá đài bên hợp nhất thành lá đài kép, hình mũi mác, hơi nhọn đầu, dài chừng 2 cm, rộng 1 cm. Lá đài kép cũng có nhiều lông ở mặt sau và có khoảng bảy đường vân. Các cánh hoa hình thuôn, mở rộng về phía đỉnh, đầu nhọn, dài chừng 4,3 cm, rộng 1,3 cm. Mặt cánh hoa nhẵn, không có lông trừ riềm của nó có lông tơ và có nhiều đường vân. Màu của cánh hoa là màu nâu đỏ mờ, có những chấm màu đậm hơn và ánh lên màu vàng ngả xanh. Môi có chiều dài 4 cm, kể cả chi tiết giống cái móng, cái móng này cũng có chiều dài tương đương cái túi, và cũng nhọn đầu, hai thùy bên có một chút lông mịn, thùy chính tạo thành cái túi. Màu nâu đỏ mờ ở các cánh hoa cũng như cái túi đều ánh lên một màu vàng ngả xanh. Miếng nhụy lép tạo thành hình thù giống mặt trăng, mặt trên có khía hình chữ V. Các thùy đều tù đầu nhưng lại có một chi tiết giống cái răng ở giữa.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở Irian Jaya (miền tây New Guinea). Cây lan này được phát hiện ở trên độ cao 800 đến 1.050 m, gần núi Carstensz và trên dãy núi Arfak, miền nam Manokwari. Ngoài ra, lại có một bộ sưu tập được cho biết là cây ở tỉnh Southern Highlands của Papua New Guinea mọc trên độ cao 1.700 m. Người ta thấy cây này mọc dưới bóng râm nhẹ của các cây rừng và dương sỉ, ở đó có nắng, ở trên những chỗ có mùn của các tảng đá. Loài này cũng được Zieck và Mattes tìm thấy, có lẽ ở gần nơi mà người ta tìm thấy những mẫu vật ở dãy núi Arfak. Các cây này mọc trên độ cao 1.000 m, gần hồ Ngabret, dọc theo triền sông Warmolpi Marveni, cách miền nam Manokwari khoảng 30 km.

Mùa ra hoa

Được biết loài này ra hoa vào giữa tháng Ba và tháng Tư, và mùa hoa thứ hai là giữa tháng Bảy và tháng Mười một ./.

Trả lời

0988110300
chat-active-icon