Pahiopedilum mohrianum Braem

Pahiopedilum mohrianum Braem
Đánh giá

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

Pahiopedilum mohrianum Braem

Tên gốc

(?) Paphiopedilum x bundtii hort., nomen nudum

Dẫn nhập

Năm 1989 Paphiopedilum mohrianum đã được Braem mô tả là một loài riêng biệt. Koopowitz (1995) đã chuyển loài này sang là một loài cùng gốc với Paph. masterianum. Cribb đã có cách tiếp cận hoàn toàn khác và nghi ngờ rằng Paph. mohrianum có thể đã được lai tạo trong tự nhiên giữa Paph. bullenianum var. celebesense với Paph. javanicum. Tuy nhiên, ông ấy lại không đưa ra được bất kỳ một chứng cứ nào để hỗ trợ cho luận điểm này. Tất nhiên là mọi người vẫn có thể thấy một sự so sánh tổng quát nào đó giữa Paph. mohrianum với những đặc tính chung của cây phức hệ Paphbullenianum, nhưng cần phải quan sát kỹ hơn về kết cấu chung khi muốn so sánh giữa Paph. mohrianum với Paph. mastersianum.

Cây lan có tính chất trung gian là điều mà không thể phủ nhận. Tất nhiên, trong bản mô tả đầu tiên của Braem, ông ấy đã mô tả như sau: “theo như hình thái học của hoa, loài này có thể được coi như là một hình thái trung gian giữa chi Spathopetalum (chúng bao gồm Paph. bullenianum) với Blepharopetalum (chúng bao gồm Paph. mastersianum)”. Không có bất kì chứng cứ nào có thể hỗ trợ cho rằng có sự ảnh hưởng của Paph. javanicum hoặc có thể được chấp nhận đó là một loài lai của một dòng lan nào đó.

Vừa qua, ông Gruβ (2014) có sự tranh luận rằng, có thể cây Paphiopedilum mohrianum chính là cây đã được Asher giới thiệu trong một bài vào năm 1981 (Kỷ yếu về lan), đó là Paph. x bundii. Mặc dù Asher có hai tấm hình màu của cây Lan và ông ta cũng không có giải thích nào về việc này. Vì vậy, Paphiopedilum x bundii cần được coi là nomen nudum.

Nguồn gốc của tên gọi

Cái tên mohrianum được đặt là để vinh danh Mr. Hartmut Mohr , một dược sĩ và cũng là nhà minh họa về thực vật của Wettenberg, nước Đức.

Mô tả

Paphiopedilum mohrianum là một loài thảo mộc thường mọc trên những nền rừng có nhiều mùn. Thuộc loài có lá nhọn, hình trứng dạng ô-van, dài chừng 25 cm và rộng khoảng 6,5 cm. Có màu xanh đậm và bóng là đặc điểm của mặt trên lá, với những vân màu xanh pha xám. Phần mặt dưới của lá có một màu xanh xám với đường sống gân nổi rõ. Vòi hoa dài khoảng 40 cm và thường chỉ có duy nhất một hoa. Thường có màu xanh lá với những chấm màu nâu đỏ là đặc điểm nhận dạng của vòi hoa, và chúng được bao phủ bởi lớp lông màu nâu. Bầu nhụy dài khoảng 0,5 cm, dày 8 mm, có màu xanh ô-liu với những tua màu nâu đỏ, bao phủ bởi lông màu nâu. Lá bắc hình tam giác khá nhỏ, có màu xanh ô-liu với phần gốc màu nâu đỏ, chỉ phủ một phần ba bầu nhụy, và có lớp lông màu nâu. Hoa có chiều cao khoảng 9 cm, nếu đo từ cánh hoa này sang cánh hoa kia, ta được chiều rộng chừng 12 cm. Lá đài sau có chiều dài dài xấp xỉ 3,5 cm, rộng 4 cm, hình ô-van rộng, gần như tròn, đầu có mũi nhọn. Hoa có màu xanh cỏ đến màu xanh ô-liu, phần chân của nó và phần tâm màu đậm hơn màu của riềm. Phía trên mặt lá đài có những đường kẻ theo chiều dọc,  màu nâu khá nổi, và quanh riềm, đặc biệt là ở phần chân gần như gập lại phía sau. Các lá đài bên nhập lại với nhau, làm thành lá đài kép, dài khoảng 2 cm, rộng khoảng 2,3 cm, màu xanh, đầu nhọn. Các cánh hoa tù đầu, lõm lòng chảo và có chiều dài tới 6 cm, rộng 2,2 cm. Riềm của cánh hoa gợn sóng. Cánh hoa có màu nền ngả xanh, trừ phần riềm có màu nâu đỏ sáng. Ở tâm và riềm của phần chân của cánh hoa tạo thành hình hơi tròn, có những chấm màu gần như đen. Điểm nối hai cánh hoa với cuống miếng nhụy lép có hình trụ. Môi có ba thùy rất rõ, hai thùy bên cuộn vào phía trong tạo thành một cái hình ống nhỏ. Thùy giữa hình thành hai cái tai ở hai bên, dài khoảng 4,5 cm, rộng gần 2,5 cm. Cả ba thùy tạo thành một cái mũ kết lật ngược, chúng không cuộn vào trong ở phần mép. Thùy giữa có màu xanh ô-liu và ta thấy mặt trước có màu nâu đỏ ở phần chân, với những đường vân màu nâu rất rõ. Có những đốm nâu đỏ ở phía bên trong của môi. Phần cuống đỡ miếng nhụy lép nhìn gần giống như hình bán nguyệt, phần đỉnh lõm vào. Lá của loài này lại phình ra ở phần gốc và có một cái bướu nhỏ nhưng nổi bật màu nâu đỏ ở tâm. Xanh ngả vàng là màu của miếng nhụy lép. Tấm nhụy lép có một chi tiết màu xanh ở cả hai mặt, lồi lên ở ngay tâm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Loài lan này có nguồn gốc ở Flores thuộc Indonesia. Không có bất cứ thông tin chi tiết về thói quen sinh trưởng của loài Lan này, có thể đây là một loài đặc hữu của hòn đảo đó.

Mùa ra hoa

Trong các vườn trồng, Paphiopedilum mohrianum ra hoa trong khoảng thời gian giữa tháng Giêng và tháng Năm./.

Trả lời

0988110300
chat-active-icon