Paphiopedilum esquirolei forma virife

Đánh giá

Paphiopedilum esquirolei forma virife (Gruβ & Röth) Braem & Chiron

Một số cây Paph. esquirolei thuộc về loài sinh sản vô tính, màu của hoa không đồng nhất. Khi hoa nở thì dù nhiều hay ít hay tất cả thì cũng sẽ có màu chủ đạo là xanh ngả vàng đến xanh sáng, nhưng lại có sắc tố đỏ ở phần còn lại. Những phần còn lại này có thể màu sẽ sáng hơn ở phần lớn cánh hoa, và một phần lớn đốm sẫm màu ở gần phần chân của lá đài và các cánh hoa. Miếng nhụy lép màu trắng và gần đỉnh có những đường sọc xanh. Các hoa hầu hết là không trắng như Paph. hirsutissimum var. (hoặc forma) album như một cây đã được tặng thưởng bởi Hội hoa Lan Nhật bản và giành được 8 giải thưởng từ Hội hoa Lan Hoa kỳ đã có sự nhầm lẫn nào đó. Không có một cây vô tính nào là hoàn toàn albino được đưa ra.

Paphiopedilum esquirolei var. chiwuanum (Tang & Wang) Braem & Chiron

Dẫn nhập và mô tả

Nhà làm vườn Tang và Wang của Trung Quốc vào năm 1951 đã mô tả một cây mà họ gọi là Paphiopedilum chiwuanum. Đó là cây mẫu, được lưu giữ ở vườn thảo mộc Bắc Kinh, nó được sưu tập ở vùng tây nam tỉnh Yunnan với một cây vẫn ở dạng chồi non. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, Chen (1976) cũng như Tang & Cribb (1982) đã đưa ra kết luận rằng cây Paph. chiwuanum chính là cây Paph. hirsutissimum. Năm 1987, Cribb đã xem xét kỹ lưởng và kết luận rằng Paph. chiwuanum với Paph. hirsutissimum là cùng loài. Bên cạnh đó, Cribb cũng giải thích rằng ông đã nhìn thấy một cây bị chết, nó đã chết khô khi họ sưu tầm được nó. Cribb nói rằng do cây này có ‘những bông hoa rất nhỏ’ nên ông ta đã ghi nhận đó là một biến loài riêng biệt (Cribb, 1987). Trong một chuyên khảo ở đó vào năm 1998, ông đã sửa đổi Paph. chiwuanum cùng tên với Paph. hirsutissimum var. esquirolei. Averyanov et al. đã khảo sát một loài Lan hài ở Việt Nam vào năm 1997. Họ cho biết trong số rất nhiều loài phổ biến đã được nghiên cứu như Paph. hirsutissimum và Paph. esquirolei , trong số đó có một vài loài cho những bông hoa nhỏ hơn với đường kính chỉ từ 7 đến 8 cm. Theo đó, hoa của các loài này là gần như phẳng, các cánh hoa hơi quăn, được phủ bởi một ít lông ngắn và thưa thớt, nếu so với những loài phổ biến khác. Các loài này lá nhỏ hơn, mùa hoa cũng sớm hơn và thường nở vào tháng Ba. Averyanov cùng những đồng nghiệp của ông đã có ”khuynh hướng’’ coi nó là Paph. hirsutissimum var. chiwuanum và xếp nó vào các loài Lan hài Việt Nam.

Các cây có lá nhỏ với hoa nhỏ hơn là điều bất thường. Ngoài ra, Paph. hirsutissimum ra hoa vào tháng Ba cũng không lấy gì là đặc biệt. Veitch vào năm 1889 đã cho biết loài này ra hoa vào thời gian là từ tháng Ba đến tháng Năm.

Dù sự mô tả về biến loài này chưa có kết luận cuối và cũng chỉ dựa trên một cây mẫu đã chết cùng với một loạt những nghi ngờ khi xếp loại chúng như là Paph. chiwuanum, vậy nên chúng tôi xếp loài này là biến loài của Paph. esquirolei. Bởi vậy sẽ là chưa đúng nếu nói rằng hoa của Paph. esquirolei var. chiwuanum nhỏ hơn, đó có thể là một khả năng.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên là chiwuanum có lẽ vì hoa của loài này nhỏ.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Cây mẫu được tìm thấy trên núi đá ở độ cao 700 m ở Fooning Hsien, Ban-Loun, miền đông nam Yunnan ở Trung Quốc. Theo Averyanov cho biết thì hình thái này được phát hiện ở tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Những bức ảnh trong cuốn sách của ông cho thấy rằng các cây này sinh trưởng ở các khe đá có mùn hay các triền núi bị xói mòn. Hình thái này của Paph. esquirolei hình thành ở độ cao từ 750 đến 1.450 m trong báo cáo của ông ấy. Các cây này ra hoa từ tháng 3 đến tháng 5 trong điều kiện tự nhiên và không biết được số lượng nhiễm sắc thể.

Để lại một bình luận

0988110300
chat-active-icon