Paphiopedilum esquirolei

Đánh giá

Paphiopedilum esquirolei Schlechter

Tên cũ

Cordule esquirolei (Schlechter) Hu

Paphiopedilum hirsutissimum var. esquirolei (Schlechter) Karasawa & Saito

Dẫn nhập

Khái niệm về Paphiopedilum esquirolei được dựa trên những cây được sưu tập bởi Cha Joseph Henri Esquirol trong tháng Sáu, 1912 tại tỉnh Quý Châu, Trung quốc. Khi phân loại ta thường xét chúng như một biến loài của Paph. hirsutissimum. Dù sao sự khác nhau đã được được Schlechter (1919) giới thiệu và mô tả rõ ràng: “cây này [Paph. esquirolei] khác với loài đó [Paph. hirsutissimum] ở chỗ cánh hoa dài hơn, có vẻ hẹp hơn và hình ô-van rõ hơn, lá đài trên nhọn hơn. Miếng nhụy lép tương tự như của Paph. hirsutissimum (Ldl.) Pfitz., nhưng cái bướu ở trên nhô ra rất ít”. Trong tài liệu gốc của ông ấy, trước đó ít tháng, Schlechter (trước 1919) mô tả lá đài có “đầu tù”.

Khi xếp loại nó đã được Karasawa & Saito chuyển xuống thành biến loài.

Năm 1943 tại Berlin, các cây mẫu đã bị bom phá hủy, nhưng cũng may là bản mô tả của Schlechter còn lại là rất chi tiết.

Xét về khía cạnh lai tạo, Paphiopedilum esquirolei được Orchid Hybrid Registra (Hội làm vườn Hoàng gia Anh) coi là đồng nhất với Paph. hirsutissimum. Mặt khác, Hội Hoa lan Hoa kỳ lại một lần nữa trao giải thưởng cho nó và đã coi đây là một loài riêng biệt.

Nguồn gốc tên gọi

Tên esquirolei được đặt theo tên nhà truyền giáo và nhà ngôn ngữ học Joseph Henri Esquirol (1870-1934), người đã phát hiện, phân loại và thu thập mẫu cây này.

Mô tả

Paphiopedilum esquirolei là một loài thảo mộc, thường sinh trưởng ở những nơi có lá mục. Chiều cao tổng quát của cây từ khoảng 30 đến 35 cm. Thân rất ngắn, rễ dày và quanh rễ có lông. Mỗi thân thường có khoảng từ 5 đến 6 lá, lá hình lưỡi thẳng, đầu tù, mọc hướng lên trên, phiến lá dày, có lông và dài khoảng 35 cm và rộng chừng 2 cm, đo ở điểm giữa. Có hai răng cưa ở phần đầu lá, ở giữa hai răng có một răng trung gian nhỏ. Vòi hoa dài đến 30 cm, hướng lên trên, bao quanh bằng một lớp lông màu đỏ tía. Lá bắc hình ô van trông như cái mũ và có đầu nhọn đột ngột, được phủ một lớp lông đỏ tía ở bên ngoài . Nếu so với Paph. hirsutissimum thì hoa của loài này có hình dáng nổi bật, đo chiều ngang được là 14 cm. Lá đài sau có hình trứng dạng ê-lip, đôi khi chỉ là hình trứng, đầu tù, có một ít lông tơ ở mặt ngoài, đến cuối có một chút lông cứng, và mặt trong nhẵn, có khoảng 13 đường gân. Lá đài sau có kích thước chiều dài là 5 cm, rộng khoảng 3,5 cm, được đo từ giữa đến đầu mút của lá đài. Đầu mút các lá đài bên cũng không nhọn, có đường sống gân cho đến đầu lá, hình trứng, chúng hợp lại với nhau dài khoảng 4 cm. Các cánh hoa phẳng, ở phần mép quăn rõ, gốc hẹp mở rộng dần về phía đỉnh, giống như cái lưỡi, đầu tù, dài chừng 4,5 cm, rộng khoảng 1,8 cm (được đo từ dưới đỉnh của cánh hoa). Ở hai mặt của riềm cánh hoa có lông tơ, và ở mặt trong cũng có, phần chân của cánh hoa lại phủ một lớp lông dày. Cái túi của hoa dài khoảng 4,5 cm và mặt ngoài nhẵn. Các thùy bên cuộn vào trong tạo thành cái miệng hình tam giác, đầu tù và khá rộng. Thùy chính tạo thành một cái túi sâu, cao khoảng 2,3 cm. Những cái “tai” hai bên dựng đứng lên, đầu tù, cao từ 7 đến 8 cm. Bên trong túi bao phủ hoàn toàn bởi một lớp lông cứng. Miếng nhụy lép gần như là vuông, có hai “mắt” gần nơi mép của chân, chiều dài và rộng gần bằng 7 mm. Nếu cắt ngang bầu nhụy thì có hình tam giác, giống cái má phanh (thắng), phủ đầy một lớp lông màu đỏ tía, và dài khoảng 4,5 cm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Loài này sinh trưởng chủ yếu ở vùng tây nam Trung Quốc, Thái lan, bắc Lào và Việt Nam. Cây mẫu đầu tiên được thu thập ở gần Sa-Lô-Fou, thuộc miền tây nam Trung Quốc, ở đó chúng mọc trên đá trên độ cao khoảng 800 m. Ngày nay được biết giống này phân bố bao gồm cả ở các tỉnh Guizhou, Guangxi và Yunnan chạy dài xuống tới cực nam cũng như miền bắc của  Thái lan. Qua hầu hết các cấp độ, các cây Lan mọc trên độ cao từ khoảng 1.200 đến 1.800 m. Vào năm 1990 ông Fowlie, cho biết đã tìm thấy chúng trên địa giới giữa hai tỉnh Guizhou-Guangxi, trên độ cao 340m. Ông ấy cũng cho biết tìm thấy cây Paph. esquirolei ở vùng cự tây bắc tỉnh Guangxi, ở đó chúng mọc dưới bóng các tán cây, trên giải đất hướng đông bắc, trên triền núi, cửa các hang động đá vôi. Sự thông gió từ các hang động mang theo hơi nước giúp cho các cây được làm mát. Năm 1998, ông Cribb bổ sung thêm là chúng có cả ở Việt Nam và bắc Lào. Năm 2003, Averyanov cho biết các cây này cũng được thấy ở Việt Nam, gồm các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Sơn La, Lào Cai, Thái Nguyên, Hòa Bình và Thanh hóa. Ở Việt Nam các cây Lan này mọc ở các khe đá, nơi tích tụ các lớp mùn, cũng như các đường nứt của các tinh thể đá vôi bị xói mòn xen lẫn trong những rừng tùng bách trên độ cao từ 300 đến 1.300 m.

Mùa ra hoa

Trong môi trường tự nhiên Paphiopedilum esquirolei thường ra hoa từ tháng Ba đến tháng Sáu.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum esquirolei có hoa với nhiều màu sắc khác nhau. Sự khác biệt lớn nhất là cuống hoa, và có lẽ việc phân định đáng kể nhất là ở thể được mô tả với cái tên là Paphiopedilum hirsitissimum var. esquirolei forma viride được Gruβ & Röth mô tả trong Caesiana vào năm 1999.

Dù sao biến loài còn phụ thuộc vào đặc điểm của Paph. esquirolei khi chúng chuyển qua cho một cây tương ứng.

 

Trả lời

0988110300
chat-active-icon