Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)
- 64) Paphiopedilum dayanum (Stone ex Lindley) Stein
Tên cũ
Cypripedium spectabile var. dayanum Stone ex Lindley
Cùng một loài
Cypripedium dayanum (Stone ex Lindley) Lindley
Cypripedium dayi Stone, MSS
Cypripedium spectabile var. dayanum Lindley
Cypripedium superbiens var. dayanum (Stone ex Lindley) Reichenbach fil.
Cypripedium petri Reichenbach fil.
Cypripedium burbidgei Reichenbach fil.
Cypripedium peteri De Vos
Cypripedium ernestianum Hort.
Cypripedium peteri D. Dean
Paphiopedilum burbidgei (Reichenbach fil.) Pfitzer
Paphiopedilum petri (Reichenbach fil.) Pfitzer
Cypripedium x petri (Reichenbach fil.) Rolfe
Paphiopedilum dayanum var. petri (Reichenbach fil.) Pfitzer
Cordula petri (Reichenbach fil.) Rolfe
Cypripedium petri var. burbidgei (Reichenbach fil.) Rolfe
Dẫn nhập
Paphiopedilum dayanum được tìm thấy bởi Hugh Low trên sườn núi Kinabalu, miền bắc Borneo. Một chuyến tàu chở đầy lan được mua rồi đưa về Anh quốc bởi John Day, đưa về nhà làm vườn Stone trồng và đã có một cây trong số đó ra hoa ngay sau triển lãm, được coi đó là cây Cypripedium dayi. Trong một bản mô tả sơ sài, John Lindley đã mắc lỗi cho rằng đó là một biến loài của Cypripedium spectabile, một loài ở Bắc Mỹ (ngày nay coi như là một loài riêng của C. reginae), song ngay sau đó người ta đã xét lại với tên Cypripedium dayanum.
Paphiopedilum dayanum vẫn hiếm thấy trong nuôi trồng cho mãi đến khi chúng lại được Peter Veitch và Frederick William Burbidge tìm thấy dưới chân “Marie-Parie Spur” thuộc núi Kinabalu vào năm 1879. Từ đó chúng lại được Anh quốc xét lại. Reichenbach đã chuyển một cây trong bộ sưu tập này và xem xét một cách nghiêm túc rồi xác định đó chính là Cypripedium petri. Sau đó một năm, một cây khác trong cùng một sưu tập được chuyển cho Reichenbach, và ông ấy đã xác định đây lại là một loài mới, lúc này thì tên của nó là Cyptipedium burbidgei.
Sự khác biệt giữa hai khái niệm về Paphiopedilum dayanum, Paphiopedilum petri, và Paphiopedilum burbidgei là ở chỗ có vân khác nhau trên lá và khác nhau về kich thước và độ đậm nhạt đối với màu của hoa. Sự biến đổi này, không còn nghi ngờ gì nữa, chúng có thể được giải thích về sự khác nhau ảnh hưởng bởi nơi chúng sinh trưởng. Như chúng ta đã từng thảo luận, một số loài khác thuộc giống Paphiopedilum đều có sự khác biệt đáng kể về mức độ khảm của lá (hãy xem, như màu sắc và kích thước hoa của loài Paph. hookerae, Paph. sukhakulii, Paph. purpuratum).
Vào năm 1896, Rolfe đã bổ sung một cách đáng kể vào tình trạng vốn đã lộn xộn, khi ông ấy bày tỏ quan điểm rằng Paphiopedilum petri là một loài được lai tạo trong tự nhiên giữa Paphiopedilum dayanum với Paphiopedilum virens, và rằng, Paphiopedilum burbidgei là một biến loài của cây Lan lai này. Một nghiên cứu chi tiết về các bản mô tả đầu tiên đã chỉ ra rằng ba dòng này đã được xác định (Paphiopedilum dayanum, Paph. petri, và Paph. burbidgei).
Nguồn gốc tên gọi
Đặt tên dayanum để vinh danh John Day (1824-1888) một người chơi lan nghiệp dư ở Victorian, Tottenham, Anh quốc.
Mô tả
Paphiopedilum dayanum có nguồn gốc là loài thảo mộc, thường mọc ở nơi có lá mục trên nền rừng. Thân ngắn và thẳng đứng, mỗi thân mang trên nó tới 6 lá. Các lá xếp thành hai dẫy, hình trứng, nhọn đầu như mũi mác, dài tới 21 cm và rộng 5 cm, phần gốc lá thì cuộn vào trong, riềm ở phần đầu lá có răng cưa nhỏ, và phần đầu mút lá chia làm ba thùy tù đầu, lá có các màu sắc khác nhau, vào thời điểm lá có màu xanh xỉn thì có những đốm lớn màu xanh đậm phủ đầy mặt trên của lá, đôi khi lại có khảm với màu xanh nhạt hoặc đậm. Những miếng khảm đó thấm xuống đến mặt dưới của lá. Lá của nó tồn tại tới 4 năm. Vòi hoa dựng đứng, cao tới 25 cm, phủ đầy lông với màu đỏ nâu mờ, mỗi vòi hoa có một hoa lớn 13 cm, đo theo chiều ngang hoa. Lá bắc của hoa dài 2,5 cm, nhọn đầu hình mũi mác, màu xanh xỉn, phủ đầy lông màu hung đỏ. Bầu nhụy cũng có lông tương tự, dài tới 7 cm màu da trâu, đỉnh của nó màu nâu đỏ nhạt. Các lá đài khum ở phần đầu, như cái nắp ấm, màu trắng với nhiều đường vân màu xanh chạy song song, phần riềm và mặt ngoài có lông ngắn. Lá đài sau hình ô-van hẹp, dài tới 6 cm, rộng 3 cm. Lá đài kép hình mũi mác, dài tới 5 cm, rộng 2 cm. Các cánh hoa dang thẳng sang hai bên, hình ê-lip kiểu lưỡi liềm, đầu hơi nhọn, dài tới 8 cm rộng trên dưới 1,5 cm, màu hồng hạt dẻ mờ, với một số đường vân chạy song song, màu xanh và nâu hạt dẻ, riềm có lông cứng. Môi tạo thành một cái túi sâu, dài 5 cm, có ba thùy, hai thùy bên cuộn vào trong tạo thành một cái ống kín dài 2 cm, màu xanh pha đỏ mờ với những mụn màu hạt dẻ sáng; thùy giữa có tai ở phần chân, màu nâu đỏ, vân màu hạt dẻ đậm, mặt ngoài nhẵn, mặt trong có lông cứng. Miếng nhụy lép có hình bán ô van đến dạng quả thận, ở riềm phia dưới có một đến ba răng, phần trên có thể có hai thùy, miếng nhụy lép rộng 1,3 cm, màu xanh xỉn với những đốm màu xanh đậm hơn kéo đến chiếc răng cưa ở giữa.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Ở Borneo. Được biết cây Lan này từ Sabah trên trườn núi thấp thuộc núi Kinabalu, trên độ cao 300 đến 1.450 m. Chúng thường mọc ở hướng đông bắc, cần ánh sáng vừa phải, bộ rễ của chúng bám chặt vào nền đất có rêu và mùn lá cây ở gốc các cây rừng trồng.
Mùa ra hoa
Được biết cây Paphiopedilum dayanum ra hoa quanh năm, mùa cao điểm là vào cuối xuân.
Biến loài và biến thể
Có năm biến loài của loài này đã được mô tả, bốn trong số đó là Cypripedium dayanum var. Không có loài nào trong số đó khác với nguyên mẫu. Các biến loài “petri” và “burbidge” đã được đề cập ở trên./.
Paphiopedilum dayanum (Hình 1 và 2)