Paphiopedilum canhii

Paphiopedilum canhii

Phân giống Megastaminodium (Tiếp theo và hết)

73) Paphiopedilum canhii Everyanov & Gruβ

Dẫn nhập

Paphiopedilum canhii được ghi nhận lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2009, khi người dân tộc H’Mông (Mèo) của miền bắc Việt Nam đem một số cây đến cơ quan của ông Chu Xuân Canh, là cán bộ của tổ chức Nguồn tự nhiên và Đồng bào dân tộc thiểu số. Một số cây được ông Canh chăm sóc nên đã ra hoa vào thàng Ba năm 2010 và điều đó đã làm thay đổi những gì được biết trước đó. Loài cây này đã được nâng lên thành nhóm và đã được mô tả trong tạp chí Orchids năm 2010 bởi Averyanov. Do chứa đựng các đoạn không có giá trị phù hợp với Mã số của Nguyên tắc phân loại cây Lan (Code of Plant Taxonomy) trong bản công bố, nên loài này cần được công bố lại cho có giá trị.

Trên quan điểm của nhà thực vật học thì vấn đề chính của  cây này đó là cách phân loại trong phạm vi một giống. Vì là một loài có một hoa hợp với loài có lá gấm, Paphiopedilum canhii rõ ràng không thuộc về loài trong phân giống Cochlopetalum (nhiều hoa), Polyantha (nhiều hoa) và Paphiopedilum (lá không vân).Vì thế không có sự tương đồng về màu sắc hay hình dạng giữa các cánh hoa và lá đài. Vì lá đài sau của Paph. canhii rõ ràng là không nhỏ hơn các cánh hoa cho nên phân giống Brachypetalum cũng phải bị loại ra, nó phải là phân giống Parvisepalum.

Vì thế, chúng tôi để nó vào phân giống Sigmatopetalum. Với những cây chỉ có một hoa trên vòi hoa và có lá gấm thì đó là một thực thể phù hợp. Tuy nhiên tất cả các loài thuộc về phân giống Sigmatopetalum cũng có đặc điểm là những lá gấm, những cái túi với cái tai hai bên rất phát triển. Tất cả các loài thuộc phân giống Sigmatopetalum cũng có những đặc điểm với hai cái tai phát triển tương tự vậy, song những đặc điểm đó lại không có ở Paph. canhii  mà thay vào đó chúng ta chỉ thấy cái túi rất tròn chứ không có cái tai nào cả.

Ngoài ra, Paphiopedilum canhii lại có một vài đặc tính khác mà những đặc điểm đó lại không thấy trong bất cứ loài Lan hài nào của châu Á, nhưng những khác biệt được ghi trong đoạn mô tả trước có thể đủ để hiểu rằng, không cần thiết phải hình thành một phân giống mới trong phạm vi giống Paphiopedilum để được phù hợp với loài Lan đặc hữu này. Phân giống mới Megastaminodium đã được công bố trong Orchid Digest bởi Braem & Gruβ vào ngày 1 tháng 7 năm 2011.

Nguồn gốc tên gọi

Paphiopedilum canhii được đặt tên để vinh danh Canh Chu Xuân, một người trồng lan Việt Nam là một viên chức chính phủ.

Mô tả

Paphiopedilum canhii có nguồn gốc thảo mộc. Có từ 2 đến 7 lá hình ê-lip đến hình trứng trên mỗi cây, chiều dài lá từ 3 đến 8 cm, rộng 1 đến 2,5 cm. Hơi quăn ở diềm lá và chỉ hơi nhọn ở đầu lá. Những vân màu xanh đậm và sáng khảm ở mặt trên của lá. Mặt dưới màu xanh xỉn, có những mảng màu tím đậm. Vòi hoa thường chỉ có một hoa duy nhất, hướng lên trên. Cuống hoa dài 3 đến 10 cm,dạng ống, màu xanh đậm, đôi khi pha thêm màu đỏ tía, một lớp lông cùng màu được phủ lên. Lá bắc của hoa gập lại, hình elip ovan hẹp, đầu nhọn, dài 0,8 đến 1,4 cm, rộng 3 đến 5 mm, màu xanh và có lông màu tím ngắn. Đo được độ dài 6 đến 8 cm chiều ngang của hoa . Lá đài sau màu trắng, hình ô-van, đầu nhọn, dài 1,5 đến 3 cm, rộng 1,4 đến 2 cm, ở phần chân pha màu xanh nhạt, có 5 đến 11 sọc màu đỏ tía ở nửa dưới của lá đài . Mặt ngoài của lá đài sau phủ đầy lông ngắn. Lá đài kép dài 14, đến 2,2 cm, rộng 0,7 đến 1,4 cm, hình ô-van hẹp, đầu nhọn hầu như chỉ có một màu xanh mờ đến trắng, đôi khi có hai sọc màu đỏ tía. Lá đài kép có lông ở mặt ngoài. Các cánh hoa hình cái nêm, phần chân hẹp dần lên phần đỉnh, đầu hơi nhọn, trải phẳng theo chiều ngang. Các cánh hoa màu xanh nhạt đến xanh hồng, dài 2,8 đến 4 cm, rộng 0,5 đến 0,7 cm, xuống phần chân có màu xanh đậm, có 7 đến 9 sọc theo chiều dọc gần đỉnh, màu tím đỏ, có lông tơ dài dọc theo diềm gợn sóng không đều. Phần diềm ở dưới thấp có những mấu trong suốt như thủy tinh, màu tím đậm. Môi có ba thùy với hai thùy bên cuộn vào tạo thành cái ống. Thùy chính tạo thành cái túi sâu. Môi dài 2 đến 3,5 cm và rộng 0,8 đến 1,5 cm, màu xanh nhẹ, với đường kẻ màu đỏ pha nâu sáng trên các thùy bên trơn bóng đã cuộn vào. Đáy bên trong của túi ken dày những mấu trong như thủy tinh, có màu tím đậm ở phần đầu của các mấu này . Trụ hoa ngắn và rộng, dài 3 đến 4 mm, màu xanh nhẹ đến xanh sáng. Các nhụy hoa có hình thon dài như dây tơ, đầu tù. Các dây tơ có màu từ ánh xanh đến xanh. Nắp phấn hoa hình cầu, màu từ vàng đến cam. Phấn hoa màu cam. Miếng nhụy lép dài 8 đến 14 mm, rộng 5 đến 10 mm, khá to, hình ô-van rộng đến hình ô-van dạng ê-lip, nguyên khối, phẳng, có khía sâu và ở đỉnh như cái móc; toàn thân màu trắng xanh nhạt nhạt, điểm thêm những chấm màu xanh ngả vàng đến xanh đậm. Cái cuống nhỏ và bầu nhụy dài 1,5 đến 3 cm, màu xanh đậm phủ đầy lông mịn màu tím. Trái của nó khi già thì khô, một quả nang dài từ 2 đến 3,5 cm, đường kính của trái chừng 5 mm, thân hẹp, có các khe.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum canhii mọc ở độ cao 900 đến 1.200 m trong các khu rừng lá lớn trên nền đá vôi, ở tỉnh Điện Biên của Việt Nam. Cây lan này mọc trên các vỉa đá thẳng đứng dưới bóng râm, rễ của chúng bán chặt vào khe đá không có chút đất nào.

Mùa hoa

Paphiopedilum canhii trong tự nhiên ra hoa trong tháng Ba và Tư, hạt trong quả nang nứt bung ra vào tháng Tám và tháng Chín.

Để lại một bình luận

0988110300
chat-active-icon