A. Loài Cypripedium palangshanense Tang & Wang
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Đây là loài đặc hữu của vùng tây bắc tỉnh Sichuan, Trung quốc.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Trong cuốn nói về môi trường sống được xuất bản vào năm 1936 thì có rất thông tin, trong đó chỉ đề cập đến nơi sinh trưởng của chúng là trên cao độ 2.200 m.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Tham khảo phần này của loài C.cordigerum.
MÔ TẢ. Cây lan có thể đạt chiều cao tới 12 cm, lá của chúng xếp theo từng cặp đối xứng ở phần lưng chừng của thân. Các lá có hình bán cầu, nhẵn, không có lông, chiều dài và rộng đều là 5 cm.
Chỉ có một bông hoa lắc lư trên cuống hoa, màu đỏ tía đậm và như được đỡ bởi cái lá bắc có hình thuôn dài 2,5 cm, rộng 0,8 cm.
Lá đài sau có hình mũi mác hẹp và nhọn đầu. Chiều dài của nó đo được 2 cm và 0,4 cm chiều rộng và úp lên bầu nhụy như cái mũ. Các lá đài bên có đầu nhọn chẻ đôi, chiều dài như lá đài sau nhưng chiều rộng to gấp đôi.
Các cánh hoa cũng có hình mác và đỉnh nhọn, hơi chếch lên. Các cánh hoa dài 1,8 cm, rộng 0,6 cm. Bầu nhụy nhỏ lại có dạng trứng ngược, dài 1 cm, rộng 0,6 cm.
MÙA RA HOA. Tháng Sáu.
B. Loài Cypripedium parvulum Xin tham khảo loài Cypripedium calceolus L.
C. Loài Cypripedium passerinum
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Loài này bị hạn chế ở vĩ tuyến bắc của lục địa Bắc Mỹ, và được thấy ở rất gần đường vành đai bắc cực, có lẽ chúng sinh trưởng trong phạm vi khu vực đó. Chúng có xuất hiện trên những vùng cao, nhưng cũng chỉ là lan đặc hữu của các tỉnh thuộc Canada và Alaska, không bao giờ nhìn thấy chúng ở bất kỳ đâu trong 48 bang lân cận.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. C. passerinum không ưa nơi ẩm ướt, ở những nơi rừng rậm hoặc những vùng ven biển. Chúng bám chặt vào bờ dốc của các hẻm núi và chỉ ra hoa tốt ở những chỗ đá sỏi sạch. Nhìn bề ngoài thì chúng chịu đựng được khá tốt những vùng đất mùn bị acid hoặc những chất trồng có đá vôi. Nhiệt độ lạnh nơi đất trồng là một yếu tố quan trọng để trồng thành công. Ở cao độ 2.400 m chúng luôn phát triển tốt.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Loài này hiện nay không có mấy người trồng vì những hạn chế về điều kiện khí hậu làm cho việc nuôi trồng chúng ít thành công.
MÔ TẢ. Thân mọc hướng lên trên cao 20 cm, đó là khi chúng chưa ra hoa. Khi ra hoa thì tổng chiều cao của chúng đạt tới 30 cm. Hoa của chúng gần như bị che khuất bởi 3-5 cái lá có lớp vỏ lụa bao quanh. Hình dạng của lá là hình mũi mác ô-van và đầu lá tù và cũng có thể nhọn. Chiều dài lá đo được 5-16 cm và rộng 1,5-5 cm. Lá bắc của hoa hình ê-lip dài 6-8 cm, rộng tới 2 cm.
Thông thường chỉ có một hoa, có hương thơm và lắc lư theo gió. Lá đài sau có màu ô liu hoặc màu trái táo xanh, bản rộng và trũng lòng chảo. Lá đài sau tạo thành cái mũ che lấy cái túi và miệng túi đến mức muốn nhìn thấy bầu nhụy thì phải nâng cái lá đài lên. Chiều dài của lá đài sau là 1,5-2 cm và rộng 1-1,5 cm. Các lá đài bên có đầu mút khi thì như liền một mảnh nhưng có khi lại chẻ đôi. Bất kể là lá đài bên chỉ có một hay một cặp thì bao giờ chúng cũng áp sát vào mặt dưới của bầu nhụy. Khi các lá đài bên tách rời nhau thì chúng làm thành một góc 30o, mỗi cái đều có hình ê-lip, nhọn đầu, dài 1-1,5 cm và rất ít khi chúng đạt được chiều rộng trên 0,5 cm. Các lá đài giả thì có chiều dài bằng nhau và có thể nói chúng dài bằng lá đài sau.
Các cánh hoa phẳng, màu trắng và ngả một màu xanh lá nhạt và cong về phía trước và ôm lấy cái túi. Cánh hình ê-lip có kẻ sọc, đầu tù, chúng chỉ dài 2 cm và rộng dưới 0,5 cm. Túi (hài) của hoa có phải hình cầu được làm phồng lên, màu sắc thì từ trắng, điểm một ít chấm màu đỏ tía đến hồng và có đốm đỏ tía. Những đốm tập trung ở mặt dưới của túi. Ở phần miệng túi, mép túi được gập sâu vào trong.
MÙA RA HOA. Từ tháng Bảy đến tháng Tám.
TÊN CHUNG. Có khuynh hướng dùng tên Sparrow ‘s Egg Lady’s Slipper (lan hài trứng con chim sẻ) cho loài này.
D. Loài Cypripedium plectrochilum Xin tham khảo bài nói về loài Cypripedium arietinum R. Brown.
E. Loài Cypripedium pulchrum Ames & Schltr. Xin tham khảo bài nói về loài Cypripedium himalaicum
F. Loài Cypripedium pussilum. Xin tham khảo bài nói về loài Cypripedium fasciculatum Kell. ex S. Wats.