GIỐNG CYPRIPEDIUM
A. Loài Cypripedium montanum Dougl ex. Lindle.
Loài lan này là một phần của một họ lan hài lớn, trong đó có cà loài C. calceolus. Căn cứ vào nghiên cứu cùa Atwood (sau năm 1985) nên coi loài này là một phần gắn liền với loài C. calceolus phức hợp.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Người ta mong có một cái tên riêng đặc biệt nào đó cho nó, loài Lan này được phân bố ở các vùng núi. Người ta đã tìm thấy ở miền tây nước Mỹ và Canada, các tài liệu cho biết ở Montana, Idaho, Wyoming, California, Oregon, Washington, Alberta, British Columbia, Vancouver Island và Alaska đều có loài này.
MÔI TRƯỜNG SINH SỐNG. Chúng ưa sống ở những vạt rừng già trên độ cao từ trung bình đến cao, C. montanum phát triển tốt trên độ cao 1.500 m cho đến lưng chừng núi cao. Chúng không chỉ chịu được độ pH cao, mà còn chịu được ẩm ướt hoặc đất khô hạn và mức độ che phủ khác nhau từ bóng râm nhiều đến bóng râm nhẹ. Khí hậu mát mẻ là một yếu tố quan trọng. Sự ẩm ướt, chỗ lộ thiên, những rừng cây rụng lá (theo mùa) là môi trường thường hấp dẫn loài này di cư tới.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Loài này không khó trồng trong điều kiện ràng buộc về khí hậu. Tham khảo về môi trường sống nói ở trên.
MÔ TẢ. Cây mảnh mai, mọc hướng lên trên, khi ra hoa có chiều cao 30-35 cm, những cây trưởng thành ít khi đạt được 25 cm, lá mọc xen kẽ nhau, với 4-6 lá, thân bọc bởi lớp vỏ lụa. Lá có hình mũi mác ô-van, đầu nhọn. Các lá sau cứ nhỏ dần theo chiều dọc của thân cho đến gần sát với lá bắc của hoa. Lá dưới cùng dài 5-16 cm, rộng 2,5-8 cm. Thân cây có lông tơ thưa thớt. Không giống như C. candidum, cũng như với loài cùng họ C. calceolus, hai loài này dù đã đâm hoa nhưng lá vẫn tiếp tục mọc, loài C. montanum hoa chỉ hình thành sau khi lá đã phát triển đầy đủ.
Cuống hoa đứng thẳng mang trên nó 2-3 hoa, hoa có hương thơm, kết cấu hoa giống như C. calceolus, trừ bầu nhụy hoa là màu trắng. Các cánh hoa cũng như lá đài đều gắn liền với túi, mặc dù lá đài sau tạo thành cái mũ che cho cái túi, và các cánh hoa thì buông thõng xuống. Các lá đài cũng cánh hoa đều có màu ka-ki, màu nâu hoặc màu cà tím. Tất các thành phần của hoa đề phô bày phần mép gợn sóng.
Lá đài sau cũng có thể nói là hình mũi mác rộng và đầu nhọn. Chiều dài của lá đài sau đo được 3-6 cm và rộng 1-1,5 cm. Các lá đài bên thường có đầu chẻ đôi và có kích thước tương đương như lá đài sau.
Các cánh hoa vừa hẹp lại vừa quăn, buông rủ xuống và hơi cong về phía cái túi. Chúng có chiều dài 4,5-7 cm và ít khi có chiều rộng đạt quá 0,5 cm.
Bầu nhụy thì tròn và phồng lên, mặc dù cả mắt lưng cũng như mặt bụng đều phẳng, và trông rất giống cái bô dành cho con nít. Những đường gân trên túi tạo thành những rãnh sâu. Màu hồng hoặc màu đỏ tía tràn ra khắp cái túi tô điểm thêm vẻ đẹp của chúng, nhưng có khi chúng lại có màu kem hoặc màu trắng sáng. Mặt trong của túi có những chấm và gân màu đỏ tươi.
MÙA RA HOA. Từ tháng Năm đến tháng Bảy.
TÊN CHUNG. Người ta thường gọi nó là Lan hài núi (Mountain Lady’s Slippere), cũng còn có tên là Lan hài trắng lớn (Large White Lady’s Slipper).
B. Loài Cypripedium nutans Xin tham khảo bài nói về loài C. bardolphianum W. W. Sm. & Farre.
C. Loài Cypripedium occidentale Xin tham khảo bài nói về loài C. montanum Dougl. ex Lindl.
D. Loài Cypripedium orientale Xin tham khảo bài nói về loài C. guttatum Sw.