Paphiopedilum violascens schlechter

Đánh giá

Paphiopedilum violascens schlechter

Trùng tên

Cordula violascens (Schlechter) Rolfe

Paphiopedilum violascens var. gautierense J. J. Smith

Dẫn nhập

Năm 1907 Rudolf Schlechter, một nhà làm vườn, đã phát hiện ra Paphiopedilum violascens, sau đó vài năm trong tác phẩm nổi tiếng của mình ông đã mô tả về cây này, nói về những cây Lan ở German Irian Jaya, ngày nay là phần phía bắc của New Guinea. Paph. bougainvilleanum Fowlie (1971) và Paph. wentworthianum Schoser & Fowlie (1968) là có quan hệ gần gũi với Paph. violascens và người ta thường cho rằng nó là cùng loài hoặc là một biến thể của Paph. wentworthianum. Loài Paph. bougainvilleanum khác có thể chủ yếu là bởi hoa có màu xanh, và Paph. wentworthianum có thể nhận ra là cánh hoa của nó trải rộng chứ không rủ xuống (xin xem phần nói về phức hệ ở bài trước)

Nguồn gốc tên gọi

Cái tên violascens bắt nguồn từ màu chính của hoa mà người ta thấy ở mẫu vật.

Mô tả

Paphiopedilum violascens là một loài thảo mộc lưu niên, sinh trưởng ở những nơi có lá mục. Cây có thân rất ngắn và có sáu lá. Lá có hình trứng thuôn, ở đầu lá có ba răng khá đẹp, dài 22,5 cm, rộng từ 2,5 đến 4 cm, màu xanh đậm với những vân màu xanh xám. Vòi hoa thẳng đứng, cao khoảng 30 cm, có màu nâu đậm, gần giống như màu đen, có lông tơ, thường chỉ có một hoa. Khi hoa nở chiều rộng đo được 7 cm. Lá đài sau có màu trắng hình ô-van rộng, đầu nhọn, có những đường kẻ sọc đối xứng với màu đỏ tươi, xanh và đen. Riềm của lá đài sau có màu hồng đến trắng, trơn láng ở mặt trong và mặt ngoài xanh hơn và nâu. Có một đường sống gân không nổi rõ ở mặt sau, và có lông mịn. Lá đài sau trũng lòng mo, dài khoảng 3,2 cm, rộng khoảng 2,8 cm. Hai lá đài bên hợp lại thành lá đài kép, dài chừng 2,5 cm, rộng chừng 1,5 cm. Chúng có hình trứng thuôn, đầu nhọn và cùng màu với lá đài sau song nhạt hơn. Các cánh hoa có kích thước chiều dài từ 3,8 đến 4,6 cm, chiều rộng chừng 1,6 cm. Chúng có hình mũi mác thẳng đến hình giống cái lưỡi, khi rủ xuống trông giống như hình lưỡi liềm, đôi khi đối xứng rõ rệt, và có lông mịn. Phần chân của cánh hoa có màu đỏ tía, song càng về phía ngọn thì lại là đỏ pha trắng, có những đường vân màu đỏ tía chạy suốt chiều dài. Chiếc môi láng bóng có ba thùy, dài khoảng 4,5 cm, rộng hơn 2,6 cm. Thùy chính tạo thành cái túi, hình thành giống như cái mũ kết để ngửa, màu xanh ô-liu đến màu nâu, mặt ngoài có những vân rất rõ. Các thùy bên cuộn vào trong tạo thành cái ống. Miếng nhụy lép thường có màu vàng kem và có một đốm xanh ở tâm, hình miếng nhụy lép giống quả thận đến hình lưỡi liềm, ở đầu mút có cái khe. Đầu mút nhụy lép có ba răng, răng bên dài hơn răng giữa rõ rệt.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum violascens phân bố chủ yếu ở vùng Irian Jaya, Papua New Guinea và sát mép các hòn đảo ở ngoài khơi. Cây này được tìm thấy ở những môi trường khác nhau trên độ cao từ khoảng 200 đến 1.200 m. Chúng được tìm thấy ở những nơi ẩm thấp, có bóng râm và chúng thường mọc ở những vùng đất của núi lửa trộn lẫn với những mảnh gỗ vụn, trong những khe đá vôi. Ở nơi đó rễ của chúng có thể hấp thụ chất mùn và rêu có tính acid.

Mùa ra hoa

Trong các vườn trồng, cây thường ra hoa vào mùa xuân. Còn trong môi trường tự nhiên, Paphiopedilum violascens thường ra hoa trong khoảng từ tháng Năm đến tháng Bảy, và thường có mùa hoa thứ hai vào khoảng từ tháng Mười đến tháng Mười hai.

Các biến loài và biến thể

Paphiopedilum violascens thường có màu của hoa và của vân lá khác nhau. Người ta thường tranh cãi rằng, Paph. bougainvilleanum và Paph. wentworthianum là các biến loài của loài này. Cây lan được J. J. Smith (1915) mô tả như là Paph. violascens var. gautierense, dựa trên cây được sưu tập ở dãy núi Gautier của miền tây New Guinea, thực ra đó là nằm trong một loài thông thường. Do đó, coi như đó không phải là một biến loài, mà chỉ là sự trùng tên với Paph. violascens (Braem 1988)./.

Để lại một bình luận

0988110300
chat-active-icon