Paphiopedilum villosum forma annamense (Rolfe) Braem, Baker & Baker
Giống Paphiopedilum – Lịch sử tự nhiên và sự nuôi trồng, (1999)
Dẫn nhập
Paphiopedilum villosum var. annamense được Rolfe mô tả lần đầu trong Curtis’ Bonical Magazine năm 1907, hình thái này được Wilhelm Micholitz, một nhà sưu tập cho Sander & Sons của St. Albans ở “Annam” (bây giờ là Laos và bắc Việt Nam) phát hiện. So với cây Paph. villosum “nguyên thủy”, Nó có điểm khác so với cây Paph. villosum “nguyên thủy” ở chỗ các lá hẹp và mọc đứng hơn, hoa nhỏ hơn và màu sắc cũng khác biệt. Paphiopedilum villosum forma annamense không nên bị nhầm lẫn với Paph. x annamense (Rolfe) Guillaumin (1924), mặc dù có vẻ như nó là thế hệ lai đầu tiên lúc đặt tên, là một loài được lai tạo giữa Paph. Ashburtoniae (barbatum x insigne) với Numa (lawrenceanum x stonei). Tên đúng của nó phải là Paph. Whitefieldense nếu theo bản kê của Sander trong Sander’s List of Orchid Hybrids, loài này được lai tạo trong vườn nuôi.
Paphiopedilum villosum forma annamense có các lá đứng thẳng hoặc uốn cong, hình thuôn, lá dai như da, dài 20 đến 40 cm, rộng gần 2,5 cm, đầu lá chẻ làm hai. Lá màu xanh mờ với những đốm màu nâu ở phần chân. Vòi hoa cao 15 đến 25 cm, đứng thẳng, có lông cứng, màu xanh với những đốm nâu, thường chỉ có một hoa trên mỗi vòi. Lá bắc có hình ê-lip thuôn, đầu hơi tù, gập đôii và dài khoảng 3,8 cm. Bầu nhụy có nhiều lông. Hoa lớn. Lá đài sau có dạng hình bán cầu, như hình trứng ngược, dựng đứng, đầu không nhọn, và có lông mịn. Lá đài sau dài gần 5 cm, mép ở phần đầu của lá hơi cuộn vào bên trong, nhưng lại uốn ra phía sau khi đến chân. Lá đài có màu kem đến pha trắng với những đường vân, có màu đỏ tía đậm ở phần tâm của lá đài sau , ở đó có một chỗ được viền nhẹ bằng màu xanh hoặc vàng. Lá đài kép hình ê-lip thuôn, màu xanh lá, đầu nhọn, độ dài gần bằng môi của hoa. Các cánh hoa hình trứng ngược, thuôn phẳng, đầu tù, có lông cứng, hơi gợn sóng, dài khoảng 6,3 cm, và có màu vàng lợt với các đường vân nâu như hình mắt lưới. Chiếc môi dài 3,8 cm và trông như cái mũ kết lật ngửa. Mặt trước màu vàng nâu. Khe hở của môi gần như giãn ra với các thùy bên dài chừng 1,3 cm. Miếng nhụy lép hình ê-lip trái tim, màu vàng, dài 1,3 cm, gần như trũng lòng chảo, có ba răng ở đỉnh, và hai thùy ở phần chân, tâm có một cái u lồi.
Loài này được phân bố trong tự nhiên ở Lào, bắc Việt Nam và tây nam Trung quốc. Gần đây, người ta sưu tập được loài này ở ở huyện Xishuangbana thuộc tỉnh Vân Nam, Trung quốc, trên độ cao từ 1.200 đến 1.600 m, trong rừng rậm có nhiều mùn. Paphiopedilum villosum annamense ra hoa quanh năm, từ tháng Giêng đến tháng Tư là cao điểm nhất. Không rõ số lượng nhiễm sắc thể /.