Paphiopedilum tranlienianum Gruβ & Perner
Cùng loài
Paphiopedilum caobanggense N.T. Tich, 1999
Dẫn nhập
Paphiopedilum tranlienianum được biết tới nhờ sự phát hiện của bà Trần Ngọc Liên ở miền bắc Việt Nam và được Gruβ & Perner nhập vào Đức.
Loài này có lá màu xanh, không vân, trên vòi hoa chỉ có một hoa, riềm ở trên thùy chính của môi phát triển như cái tai hai bên, bởi vậy nó chỉ thuộc về phân giống Paphiopedilum. Nó được chắc chắn rằng nằm trong chi Paphiopedilum, dù các cánh hoa của chúng không mở rộng lên tới đỉnh.
Gruβ & Perner dù đã mô tả cây này như một loài, nó đã được chứng minh rằng Paph. tranlienianum là kết quả của sự lai tạo giữa Paph. hirsutissimum với Paph. helenae trong tự nhiên, song cũng không nhiều bằng chứng để chứng minh giả thuyết này. Nếu như đây là một cây lai, sẽ chỉ có sự gợn sóng mạnh mẽ của các cánh hoa là có thể thấy được khả năng ảnh hưởng của Paph. hirsutissimum. Vì có quan hệ rõ rệt với tất cả các chủng loại phức hệ Paph. insigne nênPaph. tranlienianum đương nhiên có những đặc tính tự nhiên chung với các cây cùng một nhóm khác, vậy nên sẽ có khả năng có các điểm tương đồng khác trong một chủng loại sẽ được tìm thấy. Dù sao, vẫn sẽ có tính võ đoán cao khi suy luận tính chất lai từ một mình các kết quả phân tích của ITS.
Paph. caobangense đã được công bố trong bảng kê chủng loại. Hơn nữa, đây không phải cái tên đạt được sự ưu tiên cao như các ấn phẩm trước đó, như Paph. tranlienianum, phần tài liệu phát hành về nó vẫn có giá trị , không giống bản mô tả tiếng Latin hay các loại trích dẫn khác.
Nguồn gốc tên gọi
Paphiopedilum tranlienianum được đặt để vinh danh người đã khám phá ra chủng loại này là bà Trần Ngọc Liên.
Mô tả
Paphiopedilum tranlienianum là loài thảo mộc, chúng thường mọc những nơi có nhiều chất mùn từ lá cây mục. Đo từ đầu lá này đến đầu lá kia được khoảng 20 cm. Có 5 lá trên mỗi thân, chúng xếp đè lên nhau ở phần gốc, lá với kích thước chiều dài 18 cm, rộng 1,7 cm, có đường sọc, nhọn ở đầu lá, đôi khi tù và chia thành hai thùy ở đỉnh. Lá dai như da, mặt dưới của lá có đường sống gân nổi lên. Mặt trên thì có màu xanh đậm, ở riềm có một vệt trắng hẹp chạy dọc. Mặt dưới của lá màu xanh sáng hơn. Một vòi hoa thường chỉ có một hoa, cuống hoa thẳng đứng, đôi khi uốn cong, màu xanh sáng, cao khoảng 8 cm, đường kính cuống hoa 0,2 cm, màu hạt dẻ hơi đỏ, phủ đầy lông ngắn. Lá bắc của hoa hình trứng , gập đôi, nhọn ở đầu, dài từ1,6 đến 2 cm, rộng chừng 1,6 cm. Có màu tím đỏ ở phần chân của lá bắc, với những đường gân xanh đậm màu hơn. Lá bắc được phủ bởi lớp lông màu hạt dẻ ngả đỏ tía, những lông tơ cứng màu hạt dẻ ở phần chân nổi rõ trên đường sống của lá. Có những lông trắng ở gần phía đầu lá của phần riềm. Bầu nhụy của hoa hình trụ dài chừng 2,8 đến 3,2 cm, có gợn lăn tăn, được phủ lông đỏ tía. Khi đo từ đầu mút cánh hoa này tới cánh hoa kia khi chúng còn đang sống trong thiên nhiên thì hoa có kích thước dài 5 đến 5,8 cm, rộng 5,5 đến 6 cm. Lá đài sau hình cận bán cầu khi được căng ra, dài 3 đến 3,2 cm và rộng 3 đến 3,5 cm, nhọn ở đầu lá đài sau. Lá đài sau trong tự nhiên sẽ hơi cong về phía trước, và riềm thì đối xứng ở phần chân nên nó tạo thành hình dạng như ống khói. Có một sống gân nổi rõ và có lông ngắn màu trắng ở mặt sau. Riềm có lông mịn. Màu xanh đến ngả vàng ở phần chân của lá đài sau với sọc màu hạt dẻ đậm ở tâm của đường vân. Có một lớp lông màu hạt dẻ ở phần cuối của sống gân. Các lá đài bên hợp nhất lại tạo thành lá đài kép, dài 2,4 đến 2,6 cm và rộng 1,5 đến 1,8 cm, hình trứng, đầu nhọn, trũng lòng như cái thìa. Lá đài kép có màu từ trắng đến xanh sáng ở phần bên trong, màu xanh sáng ở mặt ngoài. Có khoảng 5 sọc xanh đậm ở cả hai mặt. Riềm của lá đài kép cuộn tròn vào trong, có một lớp lông trắng phủ lên, mặt ngoài của lá được phủ lớp màu hạt dẻ với lông cứng. Các cánh hoa hơi nghiêng, dài 3 đến 3,5 cm và rộng 0,7 đến 0,8 cm, hình lưỡi và đầu nhọn, với hai bên riềm gợn sóng không tính phần chân. Mặt trong của cánh hoa có màu xanh ngả vàng tới đỉnh thì chuyển màu nâu, màu nâu sẽ càng đậm khi càng gần với ngọn. Có các đường vân màu nâu trên các cánh hoa, với viền trắng ở riềm có lớp lông tơ màu nâu, và gần phần chân lông cũng màu nâu nhưng lại cứng. Màu xanh ngả vàng ở mặt ngoài các cánh hoa và cũng có các vân màu nâu đậm. Môi chia làm ba thùy rõ rệt, dài 3,5 đến 4 cm, rộng khoảng 1,5 cm. Các thùy bên của lưỡi cuộn vào trong nhưng lại không tạo thành ống kín. Thùy chính dài 1 đến 1,2 cm, hình dạng giống chiếc mũ kết để ngửa, và có hình cái tai khá rõ ở hai bên của miệng túi, so với những cây khác thuộc Paphiopedilum thì nó to và thụt xuống nhiều hơn. Mép trước phần môi hơi uốn ra ngoài, hơi nhọn ở phần tâm. Môi có màu nền là màu nâu ngả vàng, nhưng lại có màu nâu đậm với các đường vân nâu đậm hơn ở phần phía trước, phần bên trong lại sáng hơn và có lông chạy xuống phía chân.Trụ hoa dài 0,8 đến 1 cm, màu vàng, phủ bởi lớp lông màu hạt dẻ. Miếng nhụy lép hình trứng với mép hướng vào trong và dài 1,2 cm, rộng 0,8 cm, ở mặt trên của riềm có một đường rạch, đầu tròn, với một cái u ở tâm của phần chân, đầu u có màu xanh. Vì vị trí bất thường của đường xẻ nên miếng nhụy lép cũng không cố định trong giống này như các loài khác.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Loài này sinh trưởng ở miền bắc của Việt Nam và được tìm thấy trên độ cao 350 đến 800 m ở Bắc Kạn và Thái Nguyên. Chúng mọc trong mùn của các khe đá, các các chỗ bị xói mòn của núi đá vôi.
Mùa ra hoa
Loài Paphiopedilum tranlenianum ra hoa từ tháng Chín đến tháng Mười hai
Biến loài và biến thể
Paphiopedilum tranlienianum forma alboviride Gruβ
Đây là dòng albino. Hoa màu xanh và trắng với miếng nhụy lép màu vàng./.
Hình trên: P. tranlienianum forma