Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)
54) Paphiopedilum tonsum (Reichenbach fil.) Stein
Tên cũ
Cypripedium tonsum Reichenbach fil.
Trùng tên
Cordula tonsa (Reichenbach fil.) Rolfe
Dẫn nhập
Người phát hiện ra loài này và được ghi nhận là Charles Curtis, ông ấy đã tìm thấy chúng cùng với loài Paphiopedilum curtisii ở Sumatra vào năm 1882, và được nhà sưu tập lan Veitch & Son ở Chelsea, nước Anh chiêu mộ. Cây lan này đã ra hoa vào cuối mùa hè năm 1883 ở vườn ươm Royal Exotic Nursery (công ty của Veitch), sau đó cây được chuyển lại cho người con của Reichenbach và nó được phân vào dòng Cypripedium tonsum. Stein là người đưa loài này trở lại giống Paphiopedilum và được đánh giá cao. Paphiopedilum tonsum khác xa và không thể lầm lẫn với bất cứ loài nào. Có những khác biệt về màu sắc, tuy nhiên cũng chỉ có một ít biến loài được mô tả. Ngoài ra, chỉ có một đặc điểm quan trọng là thể albino (xem ở dưới).
Paphiopedilum braemii Mohr được xem là một biến loài của Paph. tonsum, but như đã nói ở trên, nếu chỉ xét riêng mình nó thì nó chỉ là một loài Lan đẹp.
Paphiopedilum tonsum trong nuôi trồng khá phổ biến và cũng có một số cây đã đạt giải thưởng bởi hệ thống đánh giá của các hội lan trên khắp thế giới.
Nguồn gốc tên gọi
Cái tên tonsum, với ý nghĩa là nhẵn nhụi, theo căn cứ thực tế các cánh hoa cũng như cấu trúc của các mụn trên cánh hoa không có lông tơ hay lông cứng.
Mô tả
Papiopedilum tonsum là một loài thảo mộc với thân ngắn. Mỗi cây chỉ từ 3 đến 8 lá. Lá dài chừng 20 cm, rộng gần 5 cm, có hình trứng ê-lip, mặt trên của lá có màu xanh thẫm, vân cẩm thạch và đốm xanh xỉn được khảm màu đỏ tía mờ. Vòi hoa cao tới 40 cm, thuôn nhọn, màu xanh sậm với những đốm đỏ tía, thường chỉ mang 1 hoa. Lá bắc với lông dài khoảng 2 cm và bằng một phần ba bầu nhụy. Chiều ngang hoa khi mãn khai đo từ đầu cánh này đến đầu cánh hoa kia chừng 10 cm. Lá đài sau hình trái tim, dài chừng 5 cm và rộng đến 4 cm, đầu nhọn. Có lông tơ xung quanh riềm. Lá đài sau có màu trắng phớt hồng với những sọc nâu hồng. Lá đài bên hợp lại thành lá đài kép, dài chừng 4 cm, hình trứng ê-lip, nhọn đầu, màu xanh nhạt với những vân xanh đậm, và hầu như không có lông. Các cánh hoa gần giống cái thìa ,duỗi thẳng sang hai bên, có lông tơ quanh riềm, dài đến 6,5 cm và rộng 2 cm. Màu xanh ở phần chân của các cánh hoa với các đường gân xanh đậm, và gần như không có lông, gần riềm có những mụn màu đen và nằm trên đường gân ở giữa. Phần đầu của cánh hoa màu đỏ tía ánh nâu. Môi dài chứng 5,6 cm, rộng 3,5 cm, có ba thùy. Phần thùy giống cái túi và hình dạng như chiếc mũ kết lật ngược, màu xanh ánh hồng với những đường gân xanh đan lại như mắt lưới. Các thùy bên cuộn vào trong tạo thành ống. Màu vàng hung được các mụn nhỏ bao phủ. Miếng nhụy lép có hình dạng như quả thận. Phần cuối thấp hơn với một khe rộng và ở giữa có 1 mấu màu xanh.
Mùa ra hoa
Paphiopedilum tonsum ra hoa từ cuối tháng Chín qua tháng Mười hai, nhưng nuôi trong vườn thì nghe nói nó có thể ra hoa quanh năm.
Biến loài và biến thể
Như đã trình bày ở phân dẫn nhập, Paphiopedilum tonsum không có khả năng biến loài đặc biệt. Không có bất kỳ sự mô tả nào về hai biến thể var. cupreum và var. superbum được liệt kê trong Lindenia. Trong cuốn The Gardeners’ Chronicle vào 31 tháng 8 năm 1895, Reichenbach fil. đã mô tả Cypripedium tonsum var. superbiens. Ba biến loài này rất khác thường về hình thái và tính chất địa lý, vì thế cũng không có giá trị để mô tả gì thêm. Chỉ có chút sự khác nhau mà ta có thể nhận ra đó là thể albino đích thực.
Paphiopedilum tonsum forma alboviride Braem
Paphiopedilum tonsum forma alboviride là một thể albino đặc trưng, nên sẽ không có chút sắc đỏ nào trên da. Lá đài sau màu trắng pha xanh ở gần chân, phần trên là màu trắng với sọc xanh chạy dọc toàn bộ lá đài sau. Cánh hoa và túi màu xanh pha vàng, và cánh hoa có một vài chấm xanh./.