Paphiopedilum sugiyamanum

Paphiopedilum sugiyamanum

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

68) Paphiopedilum sugiyamanum Cavestro

Dẫn nhập

Paphiopedilum sugiyamanum được mô tả trên cơ sở các đặc điểm của cây Lan được sưu tập vào tháng Ba năm 2001, trên một ngọn đồi ở Sabah, hướng đông bắc đảo Borneo. Một số bức hình cho thấy nhiều nghi ngờ về những thực thể mà ta cho đó là một loài riêng biệt. Trong khi đó một bản minh họa của mẫu gốc đều nói rõ cây đó có quan hệ rất gần với Paph. javanicum var. virens, những bản minh họa khác (thí dụ các bức ảnh miêu tả cây mẫu có nguồn gốc từ Đài Loan) lại cho thấy cây này có quan hệ gần gũi với Paph. dayanum và cũng không có chi tiết vật chứng nào về mối quan hệ chặt chẽ đó.

Mặc dù chúng ta vẫn còn đang bị thuyết phục rằng Paphiopedilum sugiyamanum đại diện cho một loài lai tạo nào đó (có thể là chúng được lai tạo trong thiên nhiên hoặc do một người nào đó đã tiến hành lai tạo). Nên chúng tôi vẫn để chúng ở đây và dành sự phán quyết cuối cùng khi có các dữ kiện đủ tin cậy như thói quen sinh trưởng, nơi sinh trưởng, số nhiễm sắc thể và karyotype.

Mô tả

(Dựa trên bản mô tả gốc do William Cavestro) thì Paphipedilum sugiyamanum là một loài có nguồn gốc thảo mộc. Lá có màu xanh xám và khảm một cách rõ rệt bằng màu xanh đậm. Lá có hình ê-lip thuôn, đầu lá tù hoặc có ba răng cưa. Chiều dài lá 11 đến 14 cm, rộng 3,1 đến 3,4 cm. Vòi hoa mang một hoa đơn, hướng thẳng lên trên, dài 30 đến 35 cm, toàn thân nó phủ một lớp lông ngằn màu nâu. Lá bắc hình ê-lip thuôn, gập lại theo chiều dọc, đỉnh chỉ lên trên, dài chừng 2,5 cm, rộng 1,2 cm, màu xanh , phần chân có màu nâu, riềm của nó phủ một lớp lông ngắn và mềm. Cuống hoa cùng với bầu nhụy dài 5,8 đến 6,2 cm, màu nâu hạt dẻ đậm, bao phủ bởi một lớp lông ngắn màu nâu. Đo theo chiều ngang của hoa được 9 đến 9,5 cm, và nếu tính từ đỉnh của lá đài sau đến điểm đầu của túi thì dài 9 cm. Lá đài sau hình ô van, hơi trũng lòng chảo, đầu nhọn, dài 3,8 đến 4,3 cm, rộng chừng 3,5 cm. Mép trên của lá đài sau cuộn vào trong và toàn bộ mặt ngoài lá đài đều phủ một lớp lông trắng, mềm. Lá đài kép hình mũi mác thuôn, hơi trũng lòng chảo, đỉnh chẻ làm hai, dài 3 đến 3,7 cm, rộng chừng 1,7 cm, phần bên ngoài phủ một lớp lông ngắn. Lá đài sau cũng như lá đài kép màu xanh với những sọc màu xanh đậm. Cánh hoa cũng màu xanh và cũng có sọc xanh đậm, phần chân của nó màu nâu, toàn bộ bề mặt có những chấm màu hạt dẻ, các đốm thưa dần lên phía đỉnh. Các cánh hoa hình thuôn, hướng lên trên, hơi trải rộng sang hai bên ở một góc 20 độ. Đầu cánh hoa uốn ngược về phía sau, riềm của chúng và phần gần đỉnh phủ một lớp lông màu nâu. Môi có ba thùy. Thùy chính ở giữa tạo thành cái túi có đỉnh tròn, dài chừng 4 cm, rộng 2,6 đến 2,8 cm. Hai thùy bên cuộn lại có một số mụn màu nâu. Miếng nhụy lép màu xanh và nâu có hình mắt lưới rõ rệt, ở tâm của nó và phần riềm thấp hơn có lông màu trắng. Miếng nhụy lép có mặt lồi, hình bán nguyệt đến hình quả thận, dầy 0,9 cm và rộng 1 cm, chia thành hai thùy hình mỏ neo lên đến đỉnh thì vê tròn lại, ở giữa có một răng.

Nguồn gốc tên gọi

Paphiopedilum sugiyamanum là tên của ông Sugiyama, một người say mê lan người Nhật, là người được nhiều người tin tưởng trong việc sưu tập các cây Lan gốc.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Cây được trồng chủ yếu ở Sabah (thuộc phần đảo Borneo của Malaysia)

Mùa ra hoa

Trong tài liệu gốc cho biết mùa hoa của các cây ở nơi sưu tập là từ tháng Ba qua tháng Tư. Mùa hoa của loài này, thì không xác định giới hạn. Các cây được trồng ở miền bắc nước Đức lại ra hoa giữa tháng Mười qua tháng Tư./.

Trả lời

0988110300
chat-active-icon