Phân giống Sigmatopetalum (Tiếp)
69) Paphiopedilum robinsonianum Cavestro
Dẫn nhập
Cây lan này được Alastair Robinson tìm thấy trên dãy núi miền trung đông của Sulawesi. Một giáo sư kinh tế người Pháp là William Cavestro đã quyết định hiệu chỉnh lại sai sót về mã số của bản Danh pháp Thực vật (Botanical Nomenclature) đồng thời chọn một cái tên mà sẽ giải tỏa được những sự thắc mắc không cần thiết, đó là Paphiopedilum robinsonii (Ridley) Ridley và Paph. cerveranum Braem. Những tấm hình do ông Nicholas Bougourd cung cấp cũng không thể coi đây là một loài riêng biệt; có nhiều sự nghi ngờ cho rằng có thể đây lại là một loài Lan lai. Tuy có những điểm chưa rõ ràng như vậy, nhưng cũng có thể tin được rằng cây Lan này được sưu tập ở trong môi trường hoang dã, và như vậy, nếu là lai thì chúng được lai trong tự nhiên. Từ ba tấm hình lúc bấy giờ, chỉ có một quyết định đưa ra xem xét một cách cẩn thận và khoa học là cây Paph. robinsonianum có thể là một loài riêng biệt có quan hệ gần gũi với Paph. javanicum hay là một biến thể của Paph. javanicum. Khác với dòng lan mà ông ấy mô tả vì sự khác biệt về màu sắc của lá đài sau, riềm của các cánh hoa quăn hơn, và đảo chuyển hình ê-lip của miếng nhụy lép. Cho đến khi các dữ kiện và hiện vật được tìm thấy , chúng tôi mới kết luận rằng Paph. robinsonianum là một loài riêng biệt trong tập sách này.
Mô tả
Dựa trên bản mô tả ban đầu thì Paphiopedilum robisonianum là một loài có nguồn gốc thảo mộc, mọc trên hố chứa lá cây mục. Cánh hoa dài 6 đến 6,5 cm, rộng 1,5 đến 2 cm, phần chân có sọc màu xanh sáng, gần đỉnh màu đỏ tía. Môi giữa của hoa chia làm ba thùy, hai thùy bên dài 3,5 đến 3,7 cm, rộng 1,8 đến 2 cm, màu xanh có những chấm nâu. Thùy giữa như cái mũ kết lật ngửa, dài 4 đến 4,3 cm, rộng 3,5 đến 3,7 cm, màu xanh pha nâu với những vân màu xanh đậm. Hoa có kích thước tổng quát là 11 đến 13,5 cm. Cuống hoa dài 25 đến 30 cm, màu tím đỏ. Miếng nhụy lép hình ê-lip lật ngược, tạo thành hai phần cuộn tròn, màu trắng, dài 6 mm, rộng 10 mm. Có hai khía hình chữ V ở đầu, và một ở phần đuôi, đồng thời ở gần phần chân và ở mặt trên đều có hình lưỡi liềm. Lá của nó có hình ê-lip thuôn, đầu tù, dài 13 đến 18 cm, rộng 3 đến 4,5 cm, màu xanh có vân đậm ở mặt trên. Vòi hoa hướng lên trên chỉ có một hoa. Lá bắc của hoa hình ô-van, dài 2,5 cm, màu đỏ tía. Lá đài sau màu trắng, kẻ những sọc xanh, ở phần chân có những đốm màu xanh lục bảo, có hình ô-van, mép lá đài có đầu tù, dài 5,5 đến 6 cm, rộng 4 đến 4,5 cm. Lá đài kép màu trắng, phần chân pha xanh, hình ô van, dài 3,5 đến 4 cm, rộng 2,5 đến 2,7 cm. Các cánh hoa theo đường thẳng ngang hoặc tương tự như vậy. Chúng có hình mũi mác thuôn, phần ngọn hơi quăn và úp vào trong, riềm của chúng có lông dài.
Nguồn gốc tên gọi
Được đặt theo tên của ngài Alastair Robinson, người đã phát hiện ra loài Lan này trong một lần đi nghiên cứu vào ngày 13 tháng Tám, 2013 là Paphiopedilum robisonianum
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Tập trung ở miền trung – đông Sulawesi (Indonesia). Cây đầu tiên được sưu tập giữa núi Buyu Lumut và núi Bungkutnyo Borone, giữa độ cao 1.350 và 1.420 m so với mực nước biển. Cây này mọc trong các hố có mùn được hình thành giữa các rễ của loài cây Gymnostoma rumphianum và các thành phần khác của Myrtaceae – Podocarpaceae. Dòng này còn được thấy ở vùng núi Tambusisi.
Mùa ra hoa
Chúng tôi dự đoán rằng thời gian ra hoa của chúng ngoài tự nhiên là vào giữa tháng Bảy và đầu tháng Tám vì những cây được mang về vào ngày 13 tháng Tám 2013 đã có hoa./.