Paphiopedilum purpuratum (Lindley) Stein

Đánh giá

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

  1. Paphiopedilum purpuratum (Lindley) Stein

Tên cũ

Cypripedium purpuratum Lindley

Trùng loài

Cypripedium sinicum Hance ex Reichenbach fil.

Paphiopedilum sinicum (Hance ex Reichenbach fil.) Stein

Cordula purpurata (Lindley) Rolfe

Paphiopedilum aestivum Z.J. Liu & I. Y. Zhang

Dẫn nhập

Chúng ta không có nhiều thông tin về sự phát hiện ra loài Paphiopedilum purpuratum.  Ngay cả người sở hữu các cây Lan này cũng không rõ thời điểm sưu tầm được chúng, chỉ biết rằng chúng được nuôi trồng bởi ở Anh bởi Joseph Knight (1778 – 1855), là người sở hữu của Royal Exotic Nursery trước cả Veitch. Thời điểm đó, loài này được biết đến với cái tên Cypripedium sinicum và được nuôi trồng ngay từ đầu năm 1836 bởi bởi Knight. Cùng thời gian đó, một cây được nuôi trồng bởi Loddiges. Bản vẽ về loài cây này được dùng để minh họa trong bản mô tả năm 1837 của Lindley. Việc chuyển đổi sang giống Paphiopedilum nay được ghi nhận cho Stein.

Paphiopedilum purpuratum là một loài khá lớn và rất dễ nhận biết một khi đã ra hoa. Reichenbach fil. có thể đã không biết đến bản mô tả năm 1853 của Lindley khi ông ấy mô tả Cypripedium sinicum là một loài riêng biệt. Bên cạnh đó, Lindley đã gắn cây mẫu này vào cùng một tấm ván với một mẫu cây ghi bảng tên là C. purpuratum, tuy nhiên cũng có thể việc này đã được thực hiện sau đó vài ngày. Một vài tác giả đã không khỏi lúng túng vì trong tác phẩm của Wight có tên Icones Plantarum Indiae Orientalis (1851), đã đặt cây Paph. barbatum tên là C. purpuratum. Và đã có một vài cây Paph. purpuratum cho thấy lá của chúng có vân giống như lá của Paph. barbatum. Paphiopedilum purpuratum thực ra không khó để nhận biết bởi các cánh hoa của chúng rộng hơn và phần mép trên của nó cũng không có những mụn đen mà ta thấy ở Paph. barbatum với lá đài sau hình ô van nhỏ hơn, nhọn đầu hơn, và miếng nhụy lép cũng có hình thái học khác.

Nguồn gốc tên gọi

Tên purpuratum được đặt dựa trên màu sắc chính của hoa.

Mô tả

Paphiopedilum purpuratum là một loài thảo mộc, chúng thường mọc ở nơi có nhiều mùn dưới nền rừng ẩm ướt. Loài này có lá hình ê-lip thuôn, dài từ 7 đến 14 cm và rộng khoảng 4 cm. Phần đầu thường có ba răng cưa. Mặt trên lá thường không đồng nhất hoàn toàn giữa các cây của Paph. purpuratum, chúng thường có những chỗ khảm sáng màu xanh đen, trong khi đó vài cây khác lá lại có màu đồng nhất. Những lá non thường có khảm rất rõ, nhưng màu sẽ gần như đồng nhất khi lá già. Mặt dưới lá có màu xanh sáng và có lông tơ ở phần chân. Vòi hoa cao tới 20 cm, vươn lên trên, màu tím đỏ, có lớp lông trắng bao phủ, thường chỉ mang một hoa. Lá bắc của hoa màu xanh sáng, dài chừng 2,2 cm, có lông tơ, dài bằng một nửa bầu nhụy. Hoa cao từ 7,5 đến 8,5 cm. Có lông cứng trên các lá đài. Lá đài sau dài 3,8 đến 4,6 cm, rộng 4 đến 4,6 cm, hình bán cầu, đầu nhọn, có dạng đối xứng ở phần chân của mép. Ở tâm màu trắng ánh xanh có từ 8 đến 10 vòng đối xứng với những sọc màu đỏ nâu. Các lá đài bên hợp thành lá đài kép như một đặc điểm của giống Paphiopedilum. Lá đài kép với kích thước bằng một phần ba lá đài sau, hình ô-van, đầu nhọn, màu ánh xanh. Các cánh hoa hình dạng như cái thìa dài từ 5 đến 6 cm, rộng 1,8 đến 2,2 cm, dang rộng sang hai bên và có lông cứng. Màu của chúng là hạt dẻ đỏ cùng những đường gân màu đỏ sẫm hoặc xanh, có nhiều mụn màu gần như đen ở phần chân. Môi dài 4,2 đến 4,4 cm, rộng khoảng 2,5 cm và có ba thùy. Thùy chính có dạng như cái mũ kết để ngửa, có một cái mẩu hình tròn ở phần cuối. Môi có màu đỏ tía pha nâu với những gân cùng màu. Hai thùy bên cuộn vào trong tạo thành ống, màu đỏ,được bao phủ bới một số mụn màu đen. Phần trong của môi nhẵn bóng. Các thành bên có độ trơn nhưng ở đáy của các thành bên lại sần sùi và có cấu trúc như những cái kim. Miếng nhụy lép xanh mờ ánh lên chút sắc đỏ tím, hình bán nguyệt với một khía chữ V ở trên cùng một vật như răng ở tâm của đáy.

(Còn tiếp. Kỳ sau: Phân bố và thói quen sinh trưởng)

Để lại một bình luận

0988110300
chat-active-icon