Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)
90) Paphiopedilum praestans (Reichenbach fil.) Pfitzer
Tên cũ
Cypripedium praestans Reichenbach fil.
Cùng loài
Cypripedium gardineri Guillemard
Cypripedium praestans var. kimballianum Linden fil. & Rodigas
Paphiopedilum gardineri (Guillemard) Pfitzer
Paphiopedilum praestans var. kimballianum (Linden fil. & Rodigas) Pfitzer
Cordula praestans (Reichenbach fil.) Rolfe
Paphiopedilum glanduliferum var. praestans sensu Braem
Paphiopedilum striatum Clements & Jones
Paphiopedilum bodegomensis Hort., nomen nudum
Paphiopedilum bodegomii Hort., nomen nudum
Paphiopedilum glanduliferum Auct. Non Blume
Dẫn nhập
Paphiopedilum praestans là một loài mà trước đây người ta hay nhầm lẫn với Paph. gladiliferum Blume. Mãi cho đến khi thấy các cây thực tế cùng với các thông tin thu thập được, đặc biệt là khi đem so sánh với Paph. glanduliferum Blume, thật không thỏa đáng khi nói rằng loài này trong phạm vi phức hệ của Paph. praestans. Xem thêm quá trình thảo luận về Paph. glanduliferum ở dưới.
Paphiopedilum bodegomii và Paph, bodegomensis được lựa chọn để nuôi trồng, có lẽ là dựa trên một khái niệm đã được công bố như là “Paphiopedilum nov. spec.” của Van Bodegom (1973), ông này đã lấy thông tin từ cuốn ghi chép hành trình của J. K. van Eechoud. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn không có thông tin gì thêm về cuốn sách này. Van Bodegom đã trình bày rằng cây Lan này xuất xứ từ bờ phía nam của Hồ Tigi, trên độ cao 1.700 m (5.440 feet) so với mực nước biển. Nói về màu sắc hoa của loài này, Van Boegom đã viết, “nhìn chung màu của hoa loài này đậm màu hơn hoa của Paph. praestans. Màu chủ đạo của loài này là màu vàng rực”.
Paphiopedilum striatum, được Clements & Jones (1996) mô tả là biến loài theo địa dư của Paph. praestans.
Nguồn gốc tên gọi
Theo tiếng La-tinh cái tên praestans có nghĩa là “tuyệt vời”.
Mô tả
Paphiopedilum praestans có nguồn gốc thảo mộc, nhìn chung là chúng mọc ở nơi có lá mục. Lá của loài Lan này thẳng và hẹp, dài tới 60 cm, rộng khoảng 3 cm, phần đầu tròn, lá khá mọng, màu xanh đồng nhất, có một đường sống gân lộ rõ. Kích thước của lá khá khác biệt, nó phụ thuộc vào sự biến thể nơi sinh trưởng. Vòi hoa thường dài 50 cm, cũng có khi dài hơn. Mỗi vòi hoa có tới 5 hoa, vòi có màu tím đỏ đậm, đôi chỗ có những chấm xanh, bên ngoài phủ lông màu nâu xám. Lá bắc của hoa dài từ 2,5-4,5cm, có đường sống gân sắc, hình mũi mác, màu nâu với những vân màu đậm hơn. Chiều dài của mỗi hoa tới 12,5 cm. Lá đài sau dài tới 5,5 cm và rộng chừng 2,5 cm, hình ô-van, nhọn đầu, màu vàng xỉn đến pha trắng, đôi khi là màu vàng đậm ở tâm, trên mặt lá đài sau có những sọc màu nâu pha đỏ, mặt ngoài có đường sống gân. Lá đài kép cũng tương tự như vậy tuy nhiên kích thước nhỏ hơn. Các cánh hoa thằng dài từ 10 đến 13cm, rộng chừng 0,5cm có hình đai da, cánh hoa rủ xuống tạo thành một góc khoảng 45 độ, và hơi quăn. Các cánh hoa có màu xanh vàng xỉn với những đường vân theo chiều dọc có màu xanh vàng đậm đến màu tím đỏ. Các diềm của cánh hoa gợn sóng và phủ đầy những mụn màu rất đậm, có lông gần như đen. Môi trũng sâu, màu xanh đến xanh pha vàng hoặc màu hồng sáng, có những sọc đậm màu hơn, dài tới 4,5 cm và rộng chừng 2 cm. Miếng nhụy lép hình thon dài, tạo thành các góc, dày, giống cái nắp đậy với hai vật lồi lên ở gần phần chân. Các cạnh của miếng nhụy lép không uốn về phía lưng, phía đầu có xẻ rãnh, phần tâm nhẵn, có mấu nhọn. Miếng nhụy lép có màu da bò đến pha đỏ, có nhiều lông cứng ngằn màu nâu đỏ ở các cạnh bên.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Được tìm thấy ở bờ phía tây bắc của miền Tây New Guinea (Irian Jaya) và vùng phụ cận của quần đảo, Paphiopedilum praestans mọc trên các nơi có nhiều mùn, các khe có rêu và các vết khe nứt trên đá vôi trên mặt khe. Chúng được tìm thấy ở những nơi có nhiều bóng râm đến cả những nơi ngoài nắng, trên độ cao 200m so với mực nước biển.
Mùa hoa
Trong tự nhiên, Paphiopedilum praestans ra hoa giữa tháng 11 và tháng 4. Trong thiên nhiên, vào năm thứ hai khi đã phát triển thì có thể ra hoa, song khi cây đã phát triển đầy đủ thì có thể có thể ra hoa vài lần trong một năm.
Các biến loài và biến thể
Cũng như đã nói trước, Paphiopedilum praestans, nên hiểu rằng trong cách đánh giá biến loài ở dưới có nhiều khác biệt từ màu sắc và hình thái học của hoa.
Paphiopedilum praestans var. bicornutum Cruβ
Biến loài này khác về cơ bản vì có hai cái “sừng” ở trên miếng nhụy lép.