Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)
87) Paphiopedilum philippinense (reichenbach fil.) Stein
Tên cũ
Cypripedium philippinense Reichenbach fil.
Trùng tên
Cypripedium laevigatum Bateman
Selenipedium laevigatum (Bateman) May
Paphiopedilum laevigatum (Bateman) Pfitzer
Cordula philippinense (Reichenbach fil.) Rolfe
Dẫn nhập
Người con của Reichenbach đã mô tả cây Lan này trên cơ sở là một loài thảo mộc, song thời đó (1862) chưa ai biết nguồn gốc của nó từ đâu. Hai năm sau, J. G. Veitch đã tìm thấy cây Lan thuộc loài này mọc trên rễ cây Vanda batemanii ở đảo Philippine thuộc Guimares. Một số cây như vậy được chuyển cho Bateman, đưa đến kết luận vào năm 1865, đây là Paphiopedilum laevigatum. Các khái niệm về Paph. philippinense và Paph. laevigatum được xác lập, và sau đó nhiều tác giả đã coi Paph. laevigatum là đồng nghĩa với Paph. philippinense.
Nguồn gốc tên gọi
Philippinense được đặt tên như vậy bởi đây là tên một trong những địa điểm xuất xứ chính của cây Lan.
Mô tả
Paphiopedilum philippinense là loài có nguồn gốc thảo mộc. Lá hình lưỡi thuôn và dài tới 30 cm, rộng chừng 4 cm. Các lá dai như da, một mặt láng màu xanh tuyền, mặt dưới có một sống gân nổi rõ, đầu lá tù hoặc chia làm hai thùy không đều nhau. Vòi hoa dài đến 50 cm, phủ lông tơ, màu xanh với những đường kẻ màu nâu đỏ, thường có từ 3 đến 5 hoa trên mỗi vòi. Lá bắc của hoa có hình dạng cái thuyền, màu nâu đỏ, có lông, bằng hai phần ba bầu nhụy. Hoa cao tới 20 cm, tính cả các cánh hoa dài và gợn sóng, đo chiều ngang của hoa được 8 cm. Lá đài sau dài tới 5 cm, rộng 2 đến 3 cm, hình ô-van rộng và hướng thẳng lên trên. Trên lá đài sau có những đường vân màu nâu đỏ thẫm trên nền trắng của lá đài, diềm nhấp nhô và có lông . Lá đài kép cũng có hình ô-van giống như lá đài sau song kích thước hẹp hơn, chiều dài khoảng 4 cm, màu trắng có vân xanh. Các cánh hoa xoăn, trông giống dải lụa, dài 12 đến 18 cm (đôi khi còn dài hơn), hai cánh hoa buông thõng xuống, diềm ở phần gốc của cánh hoa có lông và có những mụn. Đồng thời phần gốc có màu vàng, còn gần hết chiều dài của nó là màu đỏ mờ, đến phần ngọn lại có màu xanh xỉn. Môi của hoa dài 3 cm, rộng chừng 1,7 cm, có hình dạng chiếc mũ kết lật ngửa. Môi có màu da bò, có những sọc nâu mờ. Miếng nhụy lép hình trái tim, mỗi mặt đều có lông.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Paphiopedilum philippinense mọc trên nền rừng, nơi có nhiều lá mục, hoặc trong rêu trên thân cây và cũng có thể thấy trên đá nơi có rêu, cây này thường được thấy ở những nơi nhiều sáng. Loài lan này có mặt trải dài trên quần đảo Philippine từ miền nam Luzon tới miền bắc Mindanao và phía tây tới Palawan. Cây lan này thường mọc trên các triền và rìa núi đá vôi, thường mọc lộ thiên phơi ra sáng, trên độ cao 500 m so với mực nước biển. Người ta cũng tìm thấy loài này ở một hòn đảo nhỏ giữa miền bắc Palawan và Sabah và cũng có ít cây di thực tới vùng đất liền Sabah.
Mùa hoa
Paphiopedilum philippinense được biết là ra hoa hầu như quanh năm. Mùa hoa chính là từ tháng Tư qua tháng Sáu.
Biến loài và biến thể
Những biến loài hiện tại của Paph. philippinense tùy thuộc vào sự thừa nhận Paph, roebbelenii như là một loài riêng biệt hay không. Paphiopedilum philippinense forma alboflavum thuộc về Paph. roebbelenii và được chuyển sang một cách tương ứng.