Paphiopedilum henryanum Braem
Dị bản:
Paphiopedilum dollii Lückel
Paphiopedilum chaoi Hua
Dẫn nhập
Paphiopedilum henryanum là một trong những trường hợp không hề có lấn cấn gì trong việc phân loại. Loài này rất khác nên không thể gây ngộ nhận. Trong thời gian thực hiện việc mô tả về chúng, chỉ có các loài thuộc Paphiopedilum với một cái túi có màu hồng đậm trong nhóm các loài Lan có một hoa. Hình thái tổng quát của hoa và sự khác biệt về hình dáng của tấm nhịp lép đã bổ sung vào tính đặc thù của nó. Paph. henryanum có quan hệ gần gũi với Paph. insigne như được chỉ ra bởi Karasawa & Aoyama, 1988)
Loài này đã được Henry Azadehdel đưa vào các vườn trông ở châu Âu, ông ấy cũng cung cấp một số cây cho việc nghiên cứu khoa học. Một số cây khác thì được ông ta bán cho các nhà khoa học và nhà sưu tầm khác nhau. Paphiopedilum dollii Lückel và cây Paph. chaoi Hua sau này được mô tả là cùng một loài.
Nguồn gốc tên gọi
Tên Paphiopedilum henryanum được đặt để vinh danh ông Henry Azadehdel người đã công trong việc đưa chúng về vườn để trồng.
Mô tả
Paphiopedilum henryanum là một loài thảo mộc biểu sinh, tạo thành những cụm cây nhỏ. Nếu ta đo từ đầu lá này đến đầu lá kia thì được khoảng 35 cm. Chiều cao tổng quát, nếu tính cả vòi hoa sẽ được 20 cm. Mỗi cây có chừng 5 lá dài 17 cm và rộng 1,2 đến 1,6 cm. Mặt trên của lá đồng nhất một màu xanh đậm. Mặt dưới thường có màu xanh sáng, song đôi khi cũng thấy ánh lên một màu đỏ tía ở phần chân lá. Các lá có hình dạng một cái lưỡi, phần đỉnh lá hơi tròn, một sống lá cứng ở phía dưới. Vòi hoa cao tới 16 cm, đứng thẳng, màu xanh có một lớp lông dầy màu nâu cho đến màu đỏ tía, và thường chỉ có một hoa. Lá bắc của hoa màu xanh, dài 2 đến 3,6 cm, rộng 0,6 đến 2 cm, đầu nhọn. Ở gốc phủ một màu đỏ tía. Bầu nhụy dài chừng 4 cm, rộng 8 mm, màu xanh ngả vàng, đồng thời cũng được bao bọc một lớp lông. Nhìn chung, hoa của loài này dài 4,5 cm và rộng 5 cm, đó là khi ta đo khoảng cách các cánh hoa lúc cây Lan đang ở trong thiên nhiên. Đặc biệt, khi nuôi trồng, nếu được chăm sóc tốt, hoa của nó có thể to lơn. Lá đài sau dài khoảng 3,4 cm và chiều rộng cũng tương tự như vậy. Khi ta trải rộng ra thì nó có hình bán cầu, phần đầu có chút hơi nhọn và nó uốn cong bên trên môi . Phần giữa của lá đài sau cong cong như chiếc thuyền, sau lưng của nó là một đường gân nổi rõ. Màu của lá đài sau là trắng đến màu vàng kem, trên đó có những đốm màu nâu đỏ với kích thước không đều nhau. Riềm của nó hơi gợn sóng, phần gốc thì thường uốn vào phía sau. Mặt trong nhẵn, mặt ngoài có nhiều lông, mép có lông mịn. Các lá đài bên (đặc biệt đối với giống Paphiopedilum) hợp lại thành một lá đài kép, dài 2,7 cm và rộng 1,6 cm, mặt trong nhẵn, mặt ngoài nhiều lông, mép nhiều lông mịn. Lá đài kép có màu trắng hoặc pha vàng. Các cánh hoa dài 3,6 cm rộng khoảng 1,6 cm, hình ô van hẹp hoặc ê-lip mở rộng, đầu cánh hoa hơi tròn, quanh mép có lông mịn và hơi gợn sóng. Mặt trong và mặt ngoài của nó nhẵn, không có lông. Các cánh hoa phẳng, gần như nằm ngang và hơi uốn cong và phía trong, màu hồng đậm, với một vệt màu kem chạy quanh mép. Phần chân của các cánh hoa có những chấm màu nâu đỏ. Túi có ba thùy, kích thước tổng quát của túi hoa là dài 4,2 cm x rộng 2 cm x chiều sâu. Thùy chính có hình như một chiết mũ két lật ngược, tạo thành hai cái tai ở khe hở, dài khoảng 3 cm, rộng 2 cm. Phần đầu tròn. Khe hở rộng khoảng 2 cm, mép hướng ra ngoài. Thùy chính (túi) có màu hồng đậm với một vành tròn quanh mép màu nâu vàng. Mặt ngoài của bầu nhụy nhẵn, song ở mép và phần đáy cũng như thành bên trong phủ đầu lông cứng. Nhịp lép hình trái tim ngược, cao 7 mm, nới rộng ra mép dưới một chút. Ở tâm của nó có màu xanh ngả vàng với một cái “răng” màu táo, màu lưu huỳnh.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Ở miền tây nam Trung quốc. Các cây này được tìm thấy ở làng Napo thuộc phía tây tỉnh Quảng Tây, không xa địa giới với tỉnh Vân Nam và miền bắc Việt Nam. Cây thường mọc trên độ cao 600 đến 900 m. Ông Emerson Charles đã cho biết rằng Paphiopedilum henryanum mọc trên thung lũng đối diện với loài di thực Paphiopedilum emersonii.
Mùa ra hoa
Cây Paphiopedilum henryanum thường ra hoa vào giữa tháng Mười một tới cuối tháng Tư. Các số liệu được trích xuất từ các báo cáo về thói quen sinh trưởng cũng như những thông tin về ra hoa đều từ các cây được nuôi trồng.
Biến loài và biến thể
Paphiopedilum henryanum có sự biến đổi về màu sắc.
Paphiopedilum henryanum forma album Gruβ
Hoa của cây này không cho thấy rõ chất sắc màu da, nhưng không phải vì thế mà lấy màu trắng của nó để đặt tên cho loài này. Các cánh hoa và lá đài màu xanh ngả vàng, túi có màu trắng với một chút vàng ở hai bên, và miếng nhịp lép cũng màu vàng.
Paphiopedilum henryanum forma christae (Braem) Braem
Biến loài này được đặt tên nhằm vinh danh bà Christa Sang, ở Essen, nước Đức, nó từng được mô tả như là Paphiopedilum henryanum var. christae trong cuốn sách Schlechteriana. Một số cây vô tính được tìm thấy sau đó. Cây vô tính đầu tiên có nguồn gốc từ bộ sưu tập gốc của Henry Azadehdel, và cây thứ hai được phát hiện sau đó, trong số lan được nhập về. Paphiopedilum henryanum forma christae không khác với loài nguyên mẫu về tính thực vật cũng như kết cấu hoa, song chỉ có màu của hoa là khác hoàn toàn. Lá đài sau có màu xanhh trái táo. Khu vực chân của lá đài có những đốm màu tím đỏ nhỏ và không đều nhau. Màu nền của lá đài kép cũng như các cánh hoa là giống màu của lá đài sau. Mặt trong của các cánh hoa có những đốm màu tím đỏ đậm. Bầu nhụy màu tím đỏ lợt, có một vài đường sọc và chấm đậm màu thưa thớt.
Biến loài này được coi như là một albino. Nếu xét về những đốm đỏ đậm trên toàn bộ bông hoa , thì việc phân loại như vậy kể cũng hơi lạ./.
Hình trên: Lan hài Paphiopedilum henryanum albino