Paphiopedilum helenae Averyanov
Cùng loài
Paphiopedilum delicatum Z. J. Liu & J. Y. Zhang
Dẫn nhập
Paphiopedilum helenae được chào đón với vô số nghi ngờ, trong số đó có người cho đó là biến loài của Paph. barbigerum. Dù sao, nhìn chung việc phân loại hiện nay coi đây là một loài đẹp và khác với Paph. barbigerum về dạng bán cầu của tấm nhụy lép, các cánh hoa thẳng chứ không gợn sóng, màu sắc hoa của nó cũng khác và kích thước cây thì nhỏ hơn.
Nguồn gốc tên gọi
Paphiopedilum helenae được đặt tên để vinh danh bà Helena Averyanova
Mô tả
Pahiopedilum helenae là loài thảo mộc mọc theo cụm, là một loài biểu sinh ưa những nơi có các chất phân hủy. Mỗi thân cho từ ba đến năm lá. Lá mọc thẳng hoặc hơi cong, cứng nhắc, khá dày, màu xanh đậm, mặt trên của lá, chạy dọc theo riềm là một viền trắng ngả vàng hoặc xanh xỉn, mặt dưới màu xanh xỉn, và ở chân thường có những đốm màu đỏ tím. Lá hình mũi mác rộng hoặc hẹp, đầu lá tù, ở đỉnh co ba răng nhỏ, lá dài 4 đến 12 cm, rộng 1 đến 2 cm. Vòi hoa thường chỉ có một hoa, mọc hơi nghiêng, nằm ngang hoặc hơi thòng. Cuống hoa dài 3 đến 8 cm, hơi cong và có lông đen ngắn. Lá bắc hình ô-van đến ê-lip, gập đôi, đầu tù, dài 0,8 đến 1,9 cm, rộng khoảng 0,4 cm, và che phủ lên khoảng một phần tư bầu nhụy. Hoa to 5 đến 7 cm. Lá đài sau có màu vàng sáng, với cái riềm trắng. Hình của lá đài sau là ô-van, bán cầu hoặc hình cầu, đôi khi ở đỉnh có khía hoặc tù, dài 1,8 đến 3,5 cm và rộng 1,5 đến 3 cm. Lá đài kép màu trắng, hình ô-van dạng ê-lip, tù đầu, dài 1,5 đến 2,5 cm, rộng 0,8 đến 1,6 cm. Các cánh hoa có màu cam ngả nâu, với những sọc màu nâu đỏ chạy theo chiều dọc, riềm cánh hoa thẳng (không gợn sóng). Cánh hoa có hình lưỡi, hoặc hình cái muỗng, đầu tù hoặc trông như bị cắt một đường thẳng, phần chân bao phủ một lớp lông, cánh hoa dài 2,5 đến 3,5 cm, rộng 1,5 đến 2 cm. Nhụy lép thông thường là một vòng tròn với đường kính khoảng 0,7 đến 0,8 cm, ở tâm nhú lên một mẩu màu xanh hoặc vàng. Cuống dài 2 đến 4 cm và bầu nhụy được phủ một lớp lông màu đen ngắn.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Paphiopedilum helenae có xuất xứ từ Việt Nam. Cây được tìm thấy ở gần Cao Bằng, cực đông bắc Việt Nam. Vùng này núi bằng phẳng được hình thành bởi sự pha trộn từ các thung lũng đất bồi và có nhiều vỉa đá vôi cổ. Sự hình thành này ở trên độ cao 100 đến 150 mét so với nền của thung lũng, có hầu hết các phía thẳng đứng. Có một số khe nứt bị bồi lấp trong các nền đá vôi ở đáy của thung lũng, ở đó tạo ra nhiều hồ lớn nhỏ khác nhau do thường trộn lẫn với nước mưa trong suốt mùa mưa, được gọi là các hồ đá vôi, chúng gần như khô hạn vào cuối mùa khô. Dù sao chúng cũng tạo ra một nguồn độ ẩm làm cho cả khu vực trở nên ẩm ướt trong hầu hết mùa khô,. Paphiopedilum helenae thường thấy xuất hiện miền nam Trung quốc và thường mọc ở khu rừng thông của Keteleeria davidiana. Loài lan này thường được tìm thấy ở nơi không có nhiều bóng râm, hướng bắc hoặc sườn lộ thiên. Chúng mọc trên độ cao 800 đến 900 mét, gần đỉnh sườn dốc đứng. Ở đó họ tìm thấy thường là ở dưới các gốc cây nhỏ hoặc bụi rậm, trên các dốc đá nhỏ hẹp và trong các khe đá. Năm 1996 Averyanov cho biết rằng, trên các sườn núi đá các rễ cây Lan bám chắc vào mặt đá khá trơn, ít khi tìm được các cây Lan này mọc thành từng đám lớn.
Mùa ra hoa
Paphiopedilum helenae thường ra hoa vào giữa tháng Bảy đến tháng Chín trong các vườn nuôi trồng.
Các biến loài và biến thể
Paphiopedilum helenae có hoa thay đổi màu sắc khác nhau, đặc biệt là cường độ màu. Trong khi đó các lá của cây có thể lớn hơn nhiều trong điều kiện mọc dưới bóng râm của nhà kính, (dài tới 12 cm và chiều rộng có thể tăng thêm khoảng 2 cm), ít khi dài hơn 8 cm trong tự nhiên. Một khi chúng có màu thuần vàng thì được Gruβ và Röth mô tả vào năm 1999 là Paphiopedilum helenae forma aureum. Màu của túi cũng thay đổi từ vàng sáng sang nâu đỏ. Một số cây có màu sắc khác nhau là mang tên các nhà thực vật học là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Song dù sao, loại trừ forma aureum, thì không có sự biến đổi màu nào xứng đáng nhận được sự công nhận của các nhà khoa học một khi đã được trồng./.