Paphiopedilum exul

Đánh giá

Paphiopedilum exul (Ridley) Kerchove

Một tên gọi cũ

Cypripedium insigne var. exul Ridley

Cùng loài

Cypripedium exul (Ridley) Rolfe

Cordula exul (Ridley) Rolfe

Dẫn nhập

Việc phân loại này lần đầu tiên được nhà Thực vật học người Anh tên là Nicholas Ridley (1855-1956) coi như là Cypripedium insigne, từ năm 1888 đến 1912 ông ấy là giám đốc vườn Thực vật Singapore. Mặc dù trong bài viết nguyên tác của Ridley đã đăng trong The Gardener’ Chronicle, được đặt tên là Cypripedium insigne, song khi chuyển sang bản tiếng Latin, ở phần cuối bài ông ta lại mô tả là “Cypriedium insigne var. exul, Ridley nov. var.”. Việc nâng lên thành loài trong khuôn khổ một giống Cypripedium (như Cypripedium exul) cần phải ghi nhận cho Rolfe, trong ấn bản của ông O’Brien cho tạp chí Gardener’ Chronicle (1892) hai ngày trước đã có cùng một ý tưởng như vậy. Ông Kerchove de Denterghem đã xếp cây này vào giống Paphiopedilum (như Paphiopedilum). Kerchove nghĩ rằng loài này có thể là kết quả của sự lai tạo trong tự nhiên giữa Paph. villosum với Paph. hirsutissinum, nhưng rồi ông ấy thấy rõ ràng đây là một loài riêng biệt. Thực tế là Kerchove đã lập bản kê phân loại dưới cái tên “Paphiopedilum”, dù vậy cũng không làm mất giá trị ấn phẩm của ông, cũng chẳng làm ảnh hưởng đến sự ưu tiên trong ấn phẩm năm 1896 của Rolfe, trong đó ông liệt kê cây này như “Paphiopedilum exul”. Không có một lý do hợp lý nào từ trích dẫn về căn cứ tên gọi như Ridley, sau đó là O’Brien (từ 1976), ở cả phần Anh văn cũng như bản tiếng Latin, đều chỉ xuất xứ từ Ridley.

Paphiopedilum exul, rất rõ ràng, nó có quan hệ chặt chẽ với Paph. insigne, một giống có xuất xứ ở Himalayas , cũng như với Paph. gratrixianum từ Đông dương. Năm 1896, Joseph Dalton Hooker đã viết như sau: “Cyrpipedium exul khá giống với C. insigne, Wall., …tôi nghĩ nó có thể, rất đáng nghi ngờ, phải chăng ông Ridley đã không đúng khi coi nó như là một cây biến thể”. Và Cribb (1987) đã viết: “Đó là điều có thể tranh luận, rằng Paph. exul không nên coi như một biến thể hoặc một loài phụ của Paph. insigne.”

Paphiopedilum exul khác với Paph. insigne bởi các lá của chúng hẹp và mọc xiên, vòi hoa thì ngắn, các cánh hoa láng bóng và ngắn hơn, hoa thì nhỏ hơn. Lá đài kép rộng bằng lá đài sau và dài vượt ra khỏi đầu của môi. Môi thì ngắn hơn tạo nên một cái miệng nhỏ hơn, hẹp, hình trứng, và miếng nhụy lép thì hơi tù đầu và đặc biệt là nó nhỏ hơn nhiều so với đầu nhụy.

Nguồn gốc tên gọi

Sở dĩ có tên exul là căn cứ vào chúng được phát hiện ở nơi rất xa, một nơi như bị đi đầy (exiled), nơi mà loài Paph. insigne từng sinh sống và đã được Ridley coi như là một biến loài.

Mô tả

Paphiopedilum exul là một loài thảo mộc, mọc ở nơi có nhiều mùn tạo nên bởi lá cây. Mỗi cây có đến 5 lá mọc xiên, mỗi lá dài 15 đến 35 cm, rộng 1,8 đến 3,8 cm, lá gập đôi theo chiều dọc, đầu lá chia làm hai phần không đều nhau, màu xanh sáng hoặc xanh ngả vàng. Mặt dưới của lá có đường sống nổi rõ. Vòi hoa dài 13 đến 30 cm, hơi mảnh đến mập, chỉ có một hoa màu xanh, phủ một lớp lông màu đỏ tía đậm, kéo đến tận bầu nhụy và phần chân của các lá đài và cánh hoa. Lá bắc dài 4 đến 4,4 cm, rộng 2 đến 2,4 cm, có hình ê-lip hoặc ê-lip hẹp, hình chiếc thuyền, một chiếc mỏ khoằm ngắn, có thể nhẵn và cũng có thể có chút lông, màu từ xanh đến xanh pha vàng. Kích thước theo chiều ngang của hoa vào khoảng 6,5 cm, nhưng một vài cây vô tính lại có hoa to hơn. Lá đài sau trắng, với những chấm màu hạt dẻ ở tâm, phần có màu xanh vàng, trông giống cánh buồm, mép hơi quăn, hình ê-lip dạng ô-van, đầu tù, dài 3 đến 4,8 cm, rộng 2,5 đến 3 cm, mặt ngoài có lông mịn. Các lá đài bên hợp thành lá đài kép, màu xanh xỉn, với những đường vân xanh đậm hơn, mép cong ngược ra phía sau, hình ê-líp dạng trứng , đầu tù, dài 3,3 đến 4,8 cm, rộng 1,5 đến 2,5 cm. Các cánh hoa cuộn vào trong, hơi xiên theo chiều ngang, có dạng mũi mác ngược đến dạng thẳng, đầu tù, lượn sóng, có lông tơ, phần chân có lông cứng màu đỏ tía, các vân ở tâm có màu đỏ đậm và có một ít chấm cùng màu ở phần chân cánh hoa. Cánh hoa dài 4,3 đến 5 cm, rộng 1,4 đến 1,7 cm. Môi thuôn, trông giống cái mũ lưỡi trai (nón kết) lật ngược, màu vàng tối, sáng bóng, dài 3 đến 3,5 cm  và rộng 1,9 cm. Mép của cái túi đối xứng nhau. Miếng nhụy lép hình trứng ngược, đầu nhìn chung là tù, phần đuôi chia làm hai thùy, có lông, và ở tâm có một cục u nhẵn. Nhụy lép dài 6 đến 8 mm, mảnh mai hơn. Bầu nhụy rộng, hình cầu giống cái khiên.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Trên bán đảo Thailand. Cây này được tìm thấy trên những hòn đảo đá vôi, phía đông Vịnh Phuket-Krabi, gần đất liền. Chúng mọc thiên về hướng đông bắc và hướng đông, trên triền núi, cách mặt nước biển chừng 50 m. Rễ của cây Lan bám chặt vào các khe nứt của đá, ở đó có những hốc chứa lá mục. Các cây Lan này thường mọc ở chỗ sáng, chúng thường phơi mình dưới ánh sáng mặt trời, nhưng vào mùa hè ban ngày thường ít quang mây.

Mùa ra hoa

Ra hoa từ tháng Mười qua tháng Sáu. Mùa hoa chính là tháng Tư-Năm./.

Để lại một bình luận

0988110300
chat-active-icon