Paphiopedilum cerveranum Braem
Đồng nghĩa
Paphiopedilum robinsonii hort., non (Ridley), non robinsonnianum Cavestro
Dẫn nhập
Paphiopedilum cerveranum bị nhiều tác giả (như Van Delden, 1968; Fowlie, 1974; Karasawa, 1986); Braem, 1988 và 1998; Koopowitz, 1995) sai khi chuyển thành Paphiopedlum robinsonii (Ridley) Ridley. Hình của miếng nhụy lép cũng không như những gì được mô tả ở Paph. robinsonii, ở đó Ridley đã nói rõ là miếng nhụy lép “phần khía ở đầu rộng hơn”. Miếng nhụy của cây này ngày nay chỉ căn cứ vào cây Paph. cerveranum, do vậy mà ta không thể đưa chúng vào là biến loài của Paph. appletonianum cũng như của Paph. bullenianum. Ngay cả đối với cây mẫu của Paph. robinsonii cũng không giống. Cribb (1988) đã cho dòng này có thể là loài lai giữa Paph. bullenianum với một loài nào đó, có thể là Paph. hookerae. Một vài cây sinh sản vô tính của loài này được biết đến qua việc nuôi trồng, và có một số cây mẫu đã được đưa vào nghiên cứu trong hai mươi lăm năm qua. Địa điểm chính xác mà người ta thu thập những cây mẫu đó cũng không được tiết lộ để bảo vệ môi trường sống của chúng. Các cây mà người ta cho biết theo mô tả là Paph. cerveranum cũng được Averyanov sưu tập được ở Việt Nam.
Nguồn gốc tên gọi
Tên cerveranum là để vinh danh người say mê lan hài từ New York, Mỹ, Frank Cerveram
Mô tả
Paphiopedilum cerveranum là loài thảo mộc lâu năm, mọc ở nơi có nhiều lá mục trên nền rừng và trong các khe đá. Thân ngắn, mỗi thân có đến tám lá. Lá hình ô-van dạng trứng, dài 10 đến 25 cm, và rộng chừng 4 cm. Trên đầu mỗi lá có ba răng cưa, có vân rất nổi, màu xanh đậm với những mảng xanh bạc hoặc xanh xám. Vòi hoa thẳng, cao 30 cm và thông thường chỉ có một hoa. Lá bắc dài chừng 8 mm, màu xanh, có lông tơ và phần ngọn cuộn vào trong. Hoa có chiều cao 6,5 cm và chiều ngang đo được 9 cm. Lá đài sau màu xanh, hình ô-van rộng, dài 3,5 cm, đầu nhọn và uốn cong vào trong, Nửa dưới của lá đài sau đôi khi ánh lên màu đỏ tía và có những sọc màu đỏ đậm, riềm màu trắng và đối xứng ở phần chân. Hai lá đài bên hợp lại thành một có màu xanh mờ, lá đài kép này hình ô-van ngắn hơn lá đài sau. Các cánh hoa có chiều dài mỗi cánh khoảng 5 cm, chiều rộng tới 1,8 cm, giống cái thìa, mở rộng về phía ngọn, và quăn nhiều hoặc ít. Phần chân của cánh hoa màu xanh vàng mờ với 2 hoặc 4 nếp gấp, và có một ít chấm màu gần như đen ở phân trên. Môi tạo thành cái túi, trông giống như cái mũ lật ngược, cao 2,5 đến 3,5 cm, rộng chừng 1,8 cm. Màu của túi là xanh mờ hoặc màu nâu mật ong, với một cái riềm xung quanh miệng túi màu đỏ tía hoặc màu nâu đỏ, phần đầu mút có màu xỉn hơn, đồng thời có những đường vân giống mắt lưới màu xanh bao quanh. Miếng nhụy lép, vành dưới có một vật giống răng chìa ra và hình trái tim với một vết lõm gian thùy ở mép trên. Màu của miếng nhụy lép là màu mật, ở giữa có một chi tiết bao quanh màu xanh.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Ở Đông dương. Các cây đã được tìm thấy là từ Việt Nam gần với biên giới Campuchia, trên độ cao khoảng 600 mét. Các cây này được sưu tập ở dãy núi Bi Đúp thuộc tỉnh Lâm Đồng và các huyện ở Thanh Hóa, trên độ cao chừng 900 mét bởi Averyanov và các cộng sự của ông.
Mùa ra hoa
Ở miền trung tây Âu, Paphiopedilum cerveranum ra hoa từ tháng Giêng qua tháng Ba.
Biến loài và các biến thể
Paphiopedilum cerveranum forma viride (Braem) Braem
Biến loài này lần đầu được mô tả như là Paphiopedilum robinsonii forma viride bởi Braem, được in trong tạp chí Orchidées, Culture et Protection số 36 (1998). Nó đại diện cho dòng albino. Hoa của có màu xanh không đồng nhất đến màu xanh vàng. Tất cả các yếu tố khác của chúng đều có thể cho phép xác định là một loài./.