GIỐNG CYPRIPEDIUM
- Cypripedium cardiophyllum Franch (Xem C. debile Reichb.)
- Cypripedium cathayanum Chien. (Xem C. japonicum Thunb.)
- Cypripedium chinense Franch. (Xem C. henryi Rolfe)
- Cypripedium cordigerum D. Don
Theo Darnell (1930) và Atwood (trước 1984), loài này rất gần với họ C. calceolus. Nó được đăng tải trên tạp chí Orchid, tháng Ba năm 1939, R. E. Arnold đã mô tả sơ bộ. Được Pradhan’s mô tả một cách chi tiết năm 1986. Ông ấy đã lập một bản những khác biệt giữa hai loài để đem so sánh với cây mẫu C. calceolus ở châu Âu. Tôi tin tưởng vào những điều tương phản mà ông ấy nêu ra giữa hai loài dù tôi không có kiến thức ban đầu về loài C. cordigerum. Những ý kiến của tôi đã ghi chú bên cạnh dưới đây.
- Hình dạng của túi. calceolus có hình củ hành đầu nhọn, một cái môi tròn đến hình ê-lip, cũng chỗ đó ở mặt sau của C. cordigerum lại trông như có hai thùy và phẳng với một cái đầu tù. (Hình dạng của túi khác nhau giữa các loài ở Bắc Mỹ bao gồm cả C. calceolus phức hợp; Bạn đọc có thể tham khảo thêm những thông tin được thảo luận và tài liệu của Atwood [sau năm 1985]).
- Hình dạng và chỉ hướng của các cánh hoa. Các cánh hoa của calceolus thì giống mũi mác, xoắn,dài hơn cánh hoa của C. cordigerum chừng 1,5 cm, có hình thuôn và không xoắn.
- Màu da của các lá đài và cánh hoa. Theo Pradhan, bao hoa của loài C. cordigerum lại có màu xanh vàng trong khi bao hoa của loài calceolus có màu nâu sô-cô-la. (các lá đài và các cánh hoa màu xanh xỉn thường thấy ở các cây C. calceolus mẫu ở Bắc Mỹ).
- Hình dạng của nhịp lép (tiếng Anh là staminode, có nghĩa là một dạng nhụy trong hoa nhưng không sản xuất ra phấn hoa – tham khảo trên google). Nhụy lép của C. cordigerum thì tròn, hình trái tim thuôn, trong khi đó calceolus mang nhụy lép giống hình sống trâu có dạng hình thuôn tù.
- So sánh chiều dài của lá đài sau với chiều dài của môi (cánh hoa giữa, túi). Chiều dài của lá đài sau của C. ordigerum gần bằng 1,5 lần chiều dài của túi. Trong khi đó chiều dài của lá đài sau của calceolus tương đương với chiều dài của môi.
- Màu sắc của môi (túi). Calceolus có màu vàng sáng (xem cuộc thảo luận về phân loại họ C. calceolus với những cái túi trắng đó là theo kinh nghiệm của Pradhan về màu sắc của môi. Và hình thể những cái túi trắng hoặc có màu kem), trong khi đó màu trắng là màu túi của loài C. cordigerum. Những nhận xét của Pradhan bạn đọc nên tham khảo thêm. Xin lưu ý rằng Pradhan đã so sánh loài C.calceolus với loài C. cordigerum ở vùng châu Âu thuộc châu Á; cần phải có những yếu tố đặc biệt để so sánh thêm nữa làm cho sự khác nhau giữa hai thực thế được rõ hơn, bởi vì sự phát triển loài C. calceolus ở nơi cách biệt với loài C. cordigerum sinh trưởng ở vùng Nam Mỹ,
- .PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Loài này thuộc dẫy Himalayas của Ấn độ qua Nepal và tới Tây Tạng (Bhutan), được cho là đến từ Kashmir và Simla .
- MÔI TRƯỜNG SỐNG. C. cordigerum xuất hiện ở nơi có bóng râm loang lổ của những trảng cỏ lộ thiên, và những cây Đỗ Quyên và trồng trên độ cao 2.600-3.700 m.
- NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI TRỒNG. Giả thiết rằng tuyết xuất hiện đều đặn và điều kiện acid được thiết lập thì Pradhan cho rằng những cây Cypripedium ở Himalayas chịu đựng được trong vườn có đá sỏi ở vĩ tuyến 30 bắc (hoặc nam vĩ tuyến đó ở miền nam Hemisphere). Ông ấy khuyến cáo nhiệt độ mùa hè khoảng 15o C, nhiệt độ vào mùa đông khoảng 5o C hoặc thấp hơn. Pradhan còn khuyến cáo chất nền bao gồm 2 phần đất mùn, 1 phần cát thô, 1 phần gồm những miếng rêu nước, 2 phần lá cây mụ, giữ cho chất nền luôn luôn ẩm.
- MÔ TẢ. Thân cây có thể đạt đến độ cao 20-60 cm, có lông tơ, và có nhiều lá. Lá bầu gần giống đường quỹ đạo hoặc có hình dạng từ mũi mác lên, với đầu lá nhọn. Lá dài 7,5-15 cm. Có những lá bắc có thùy lớn đỡ cho duy nhất một bông hoa nên cây trông lớn tới 10 cm, tính theo chiều ngang. Các cánh hoa và lá đài có màu trắng ngả xanh. Cánh hoa giữa (túi) với những lông màu cam chung quanh riềm và màu trắng. MÙA RA HOA. Tháng Bảy và tháng Tám.