Lan Hài (Slipper Orchids) – Giống Cypripedium (phần 6)

Lan Hài (Slipper Orchids) – Giống Cypripedium (phần 6)
Đánh giá

Loài Cypripediun calceolus L.

Hiện tại loài này cần phải được coi là một loài phức hợp, và một số có thể quy cho là giống loài này nhưng nó phụ thuộc vào mối quan hệ thực tế giữa chúng với nhau. Để cho thuận tiện, tôi đã để những loài mà tôi đã đặt cho chúng một tên thành một nhóm riêng, những loài được quy cho là alba trong phức hợp này, coi đó là những loài riêng. Bạn đọc có thể tham khảo phần nói về loài C. montanum và loài C. candidum trong chương này để có thêm thông tin đối với những loài dưới hình thức alba. Bạn cũng có thể xem thêm các loài có liên quan ở châu Á như C. cordigerum, C. henryi  C. microsaccus.

PHÂN BỐ THEO ĐỊA LÝ. Loài này được phân bố rộng rãi từ châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ, đây là loài phức hợp với đặc tính sinh thái nhiều hình nhiều dạng hơn. Loài phức hợp (complex) khác nhau về kích thước, hương thơm, màu sắc và số lượng hoa trên mỗi vòi hoa. Nhưng khi đã coi chúng như một nhóm với nhau thì những khác biệt thì có vẻ ít mà tính tương đồng lại nhiều hơn. C. calceolus nằm trọn ở vành đai phía bắc. Điều này đã được đề cập đến trên toàn vùng miền đông của lục địa Bắc Mỹ phía trên bán đảo Florida, và trải dài xuống tây bắc Thái bình dương cũng như các tỉnh của Canada. Loài này cũng được nói đến ở hạ du dẫy Himalayas từ hòn đảo nhỏ British, và theo ông Shrenk (1981), chúng lại tập trung ở vùng Black Forest ở khu vực Bắc Âu. Ông Slysarenko (1981) đã viết “cypripedium calceolus L. có khắp nơi ở Liên Xô cũ, từ biên giới phía tây đến những hòn đảo tận Viễn Đông”.

MÔI TRƯỜNG SỐNG. C. calceolus là một loài phức hợp sống ở hầu hết độ cao và dưới mọi điều kiện. Không giống những loài khác, loài này không ưa đất nhiễm acid; tất nhiên có những loài ưa những vùng đất nền có những khối đá vôi trồi lên trên mặt. Một số cá thể mọc ở vùng châu thổ Louisiana gần mực nước biển; song vẫn có thể tìm thấy một số khác sống thích nghi ở độ cao 2.700 m hoặc hơn nữa ở vùng núi Rocky Mountains. Một sự biến đổi lớn lao nào đó đối với môi trường sống thì loài này cũng chấp nhận, kể cả những đồng cỏ lộ thiên, dưới tán dầy của rừng tùng, bách, rừng thông, những trảng cỏ khô, những vỉa đá vôi phủ đầy rêu, những vùng đất bằng phẳng khô cằn của Arizona, những rừng mưa vùng British Columbia và những vùng đất thấp ven biển rải đá của Newfoundland. Mặc dù những thể loại trong phức hợp này nằm trong số các loài rất dễ thích nghi với điều kiện tự nhiên, những thể loại này không nên di chuyển đến những vùng đất quá khác biệt mà không quan tâm đến những nhu cầu về sinh thái.

NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý KHI TRỒNG. Nếu di chuyển cây Lan trong phạm vi một địa phương, loài này cũng dễ phát triển trong cùng một vườn hoa hoang dã. Không cần những sự chăm sóc đặc biệt nào, tuy vậy chúng tôi cũng khuyến cáo các bạn đưa cái cây thử nghiệm vào một nơi ổn định, nơi mà không thường xuyên bị quấy rầy như là việc trồng thêm các cây khác vào đó hoặc canh tác thứ gì đó. C. calceolus var kentuckiense là một ngoại lệ đối với nguyên tắc này. Tôi có liên hệ cá nhân với Victor Soukup về những cây biến đổi có kích thước lớn, hoa đẹp được làm sạch rồi đưa về vườn của ông ấy, sau khi đưa xuống vùng thấp hơn nơi sinh trưởng của nó hàng nghìn feet (ft= >0,3 m) rồi trồng lại, chúng vẫn sống và phát triển nếu như chúng không bị quấy rầy.  Ông ấy tin rằng, sự quấy rầy đã kích thích sự biến đổi này, và trong một báo cáo ông cho biết, nguyên thủy chúng được tìm thấy khi mọc ở đất bùn pha cát, là loại đất khi khô thì dễ vỡ vụn nhưng không cứng.

Chúng đã sẵn sàng cho những trái có hạt dạng ellipsoid, song việc thu thập hạt để nhân giống thì ít khó khăn hơn nhiều loài khác.

MÔ TẢ. Theo Correll (1950) có 4 thể dễ nhận thấy của C. calceolus được tìm thấy ở Bắc Mỹ. Correll gọi cả 4 thực thể này là những thể quá độ. Atwood (1985) đã đứng về một phía khác, chỉ có 3 trong số các thực thể này là trong cùng một hạng, và đưa thực thể thứ tư vào thể biến loài. Phần dưới đây sẽ nói nhiều hơn về Atwood. Một cây mẫu được Linnaeus mô tả trong bài Species Plantarum năm 1753. Những thể loại mà thấy nhiều ở miền nam Hoa kỳ là C. calceolus var. pubescens Willd., một thể chỉ có một hoa, hoa to và có hương thơm; C. calceolus var. parviflorum (Salish) Fernald thì nhỏ hơn và có ta 2-3 hoa trên một vòi hoa; và một thực thể được gọi là C. kentuckiense Reed hoặc C. furcatum Raf., một thể phức hợp có hoa khá lớn được cho là từ vùng miền nam và miền trung Hoa kỳ. Loài mà tôi gọi là C.calceolus var. kentuckiense, chúng có một giải màu từ màu xỉn đến màu tối một cách đặc biệt. Một cuộc trao đổi về những đặc tính của nó đã được Atwood (1984) công bố như C. kentuckiense C.F. Reed. Thể thứ tư, đó là C. calceolus var. planipetalum Morris & Earnes nó thuộc về vùng vĩ tuyến bắc.

Tiến sĩ John Atwwod, Giám đốc Trung tâm thẩm định lan của Vườn Sarasota của Marie Selby, ở Florida đã công bố những thông tin chi tiết về tất cả những gì thuộc về C. calceolus phức hợp (1985). Ông ấy gọi thực thể đầu tiên là C. pubescens var. pubescens, thực thể thứ hai là C. parviflorum, thứ ba là C. kentuckiense và thứ tư là C. pubescens var. planipetalum. Trải qua hai thập kỷ nghiên cứu, mọi người coi ông ấy như một nhà phân loại lan không ai hơn, thất sự có những khó khăn để lựa chọn những đặc điểm nổi trội có quan hệ gần gũi với những cây mà ông đưa ra làm đối chứng.

Trong số những đặc điểm thầm lặng được Atwood nhận dạng là kích thước của cái túi (mũi hài) có sự khác nhau giữa các cây xuất phát ở cùng một nơi, đó là C. kentuckiense và C. pubescens, như cái tên mà ông ta đã đặt theo những gì mà ông ấy thấy có sự dị biệt. Sự khác nhau về kích thước  của cái túi dẫn đến việc các loài ong thực hiện việc thụ phấn cũng khác nhau, và đây chính là yếu tố quan trọng nhất để phân thành hai loài riêng rẽ. Atwood (1985) cho biết thêm việc phân tích nguồn gốc để cho phép C. pubescens xếp vào nhóm bao gồm loài nguyên thủy cũng như loài var. planipetalum; căn cứ vào kết quả khảo sát của ông, hai thể quá độ ở Colorando và đã lai tạo một cách tự nhiên ở Michigan và Wisconsin. Ông ấy nói thêm rằng loài có kích thước nhỏ hơn, các thành phần của cây giầu sắc tố hơn, và thiếu vắng thể quá độ C. parviflorum từ những cây phức hợp còn lại. Những bạn đọc muốn thỏa mãn tính ham hiểu biết về tình hình phân loại của loài phức hợp này xin hãy tham khảo các tài liệu lưu trữ năm 1985: HỘI NGHỊ LAN THẾ GIỚI LẦN THỨ 11 để biết thêm chi tiết. Liên quan chặt chẽ với vấn đề này, theo Atwood (1985), thì việc phân loại các loài có môi trắng C. montanum và C. candidum, đều được thường xuyên xem xét để phân chia loài trong phạm vi quyền hạn của họ.

Nhằm mục đích cho công việc này, một bản mô tả chung của loài C. calceolus var. pubescens Wild. Đã được trình bày như là một chuẩn mực chống lại những gì mà các biến thể được đem ra so sánh với mục đích tóm lược và khúc chiết hơn. Tính chất thực vật của cây đã có độ cao 45-60 cm và mang 3-5 lá hình ê-lip rộng, có đầu nhọn. Các lá uốn nếp rõ ràng  và ôm chặt lấy thân. Chiều dài của lá đạ 15-20 cm, và chiều rộng có thể tới 10 cm, đo ở chỗ lớn nhất. C. calceolus var. pubescens nguyên thủy chỉ có một hoa, nhưng cũng có khi có hai hoa nhưng không phổ biến. Hoa được che bởi một cái lá bắc giống cái mũ, đo được 4-10 cm dài và đo ở phần giữa rộng 2-4 cm.

Các lá đài và cánh hoa thay đổi màu sắc từ xanh ngả vàng đến màu cà tím hoặc hồng như hoa thiên thảo. Lá đài sau hình ô-van, nhọn đầu và thỉnh thoảng có gợn sóng. Lá đài sau che kín miệng của túi, chiều dài đo được 4-5 cm và 3-6 cm chiều rộng, đầu mút chiếc giả lá đài  đôi khi giống cái “bô” đi vệ sinh của trẻ. Nó có hình dạng mũi mác nhọn đầu, và chiều dài đo được 3-8 cm, chiều rộng 2-3 cm.

Các cánh hoa có hình mũi giáo có sọc và xoắn lại, dài 6-8 cm và rộng 1-2 cm, đo ở điểm rộng nhất. Cái túi phồng lên có màu trắng, màu kem hoặc vàng, nguyên là màu vàng kim. Có những gân màu đỏ cắt ngang mặt ngoài của túi, và những khảm có cùng màu tô điểm mặt trong của túi. Mặt dưới của túi thường khảm với những đốm lớn có màu từ màu trái mơ đến đỏ. Túi dài 3-6 cm, và viền quanh túi với mép có uốn lượng.

calceolus var. parviflorum Salish. được phân biệt bởi có ít lông tơ hơn và có hoa với kích thước bằng nửa so với hoa của var. pubescens. Thực tế, kích thước của các thành phần khác của cây, sự khác nhau này chỉ vào khoảng một nửa loài var. pubescens. Trong chủng loại này mà tôi đã khảo sát, thì var. parviflorum ít có sắc tố hồng trong các lá đài cũng như cánh hoa, mà nó vó vẻ ngả sang màu xanh vàng, màu ô-liu hoặc màu ka-ki trong các lá đài. Atwood (qua trao đổi riêng) tin rằng có thể có những loài có điểm khác giữa những cây ở miền bắc và miền nam mà người ta tìm thấy ở Hoa kỳ. Sự khác nhau này thường thấy là trên mỗi thân có 2-5 hoa. (Còn tiếp).

kentuckiense Reed là thể thứ ba trong loài phức hợp. Tôi muốn đưa loài này vào cùng một biến thể của C. calceolus, và làm như vậy chắc chắn sẽ trở nên rối rắm trong việc tranh cãi đã từng nổ ra trong những năm 80 về loài này. Một tập hợp những nhà lan học khăng khăng rằng tên chính xác của nó phải là C. furcatum Raf., và những cuộc tranh cãi đó còn lâu mới được giải quyết. Ngoài ra, còn một cuộc tranh cãi nghiêm túc nữa tập trung vào việc có nên đưa loài này ra khỏi loài phức hợp C. calceolus hay không và đưa các loài có liên quan thành một loài riêng. Thực ra, tôi muốn để nó như một biến thể của C. calceolus, hơn là tách chúng ra thành một loài riêng như đã từng tranh cãi một cách gay gắt. Thể lan này được phân bổ từ miền đông bắc Kentucky, qua Tennessee đi vào miền bắc Louisiana và vùng Texarkana, và đổ theo hướng bắc vào Bang Plains. C. calceolus var. kentuckiense mang những đặc tính rất giống var. pubescens, song thỉnh thoảng chúng lại vượt trội về kích thước thực vật cũng như các bộ phận của hoa ở một chừng mực nào đó. Các lá đài cũng như cánh hoa có màu đậm hơn những gì thuộc về loài var. pubescens và, thông thường thì có màu nâu đậm giống màu gỗ dái ngựa hoặc màu hồng hoa thiên thảo. Trái lại, môi của hoa lại có màu vàng xỉn hoặc màu kem, và trong nhiều chủng loại môi của chúng phồng to hơn ở điểm giữa với phần trước bụng và sau lưng lại phẳng ở hầu hết các túi. Đây là loài có hoa gây ấn tượng, và ở thể hiếm. Đôi khi không được thật công bằng vì thiếu phần minh họa. Ngoài ra, một trong những đặc tính hấp dẫn của loài này là về hoa và tính thực vật của cây vì chúng khá giống với loài C.calceolus var. pubescens.

Tôi có liên hệ cá nhân với Carson Whitlow và Victor Soukup, có cảm tưởng mạnh mẽ rằng var. kentuckiense xứng đáng được đưa sang một thể loại khác. Những sự khác nhau về hương thơm như đề cập và những khác nhau về sinh lý học có thể là thực so với phần còn lại của loài C. calceolus phức hợp. Soukup đã chỉ ra rằng chúng ra hoa chậm hơn 10 ngày so với các thể khác của C. calceolus và trên một cái cuống hoa dài hơn. Sự khác nhau về thời gian ra hoa là lý do hợp lý để tách thể này không tham gia vào nhóm gen lớn hơn, và cũng làm cho quá trình thảo luận được thuận tiện hơn. Có lẽ điều làm cho việc tranh luận trở nên gay gắt hơn cho thể này là môi trường và nơi sinh trưởng; nó quen với môi trường ẩm ướt ở miền nam của vùng trung Hoa kỳ. Nếu như chúng không phải là loài riêng biệt, thì trong tương lai nó cũng được tách riêng ra vì những ưu điểm của nó sẽ được lai tạo với những loài có số lượng gien lớn hơn.

calceolus var. planipetalum (Fern.) Morris & Eames là một thể ở miền bắc, được mô tả ở Alaska, Newfoundland và các vùng miền bắc thuộc châu Âu và Liên xô cũ, cũng như ở các vùng thấp thuộc vùng núi của Colorado. Loài này có các lá đài và cánh hoa ngắn hơn, có đầu tù và đôi khi cho thấy hơi quăn giống như đặc tính của một số thể khác. Mép của các lá đài của biến loài này cũng có gợn sóng một chút. Màu của các lá đài và cánh hoa có chiều hướng thành màu cà tím, còn màu của túi thì thường là màu vàng, mặc dù ở những loài phức hợp, chúng thường có màu trắng. Theo như Atwood (1985), lá đài hai bên của thể này thường bị chẻ đôi cho đến một phần tư chiều dài của nó, đó là đặc điểm để tách chúng ra khỏi phần còn lại của phức hợp.

Ở điểm này của cuộc tranh luận về loài phức hợp, vấn đề bao gồm cả loài C. candidum và loài C. montanum như các thể alba được nêu lên. Chỉ dựa trên các tiêu chuẩn hình thái học thôi, thì có một số cơ sở để đưa chúng ra khỏi loài phức hợp, vì vậy tôi đã kêu gọi sự chú ý của độc giả đối với cả hai loài (đã được liệt kê theo thứ tự alphabet) trong việc đồng ý với ý kiến của Tiến sĩ Atwwod. Ngoài ra, vì mục đích phân định, tôi sẽ đặt mỗi loài tách biệt nhau vì chúng đã từng tồn tại qua nhiếu năm rồi.

Có rất nhiều bản mô tả về loài phức hợp C. calceolus. Những sinh viên cần cù chịu khó có thể thu thập được nhiều mẫu từ hàng trăm địa điểm và đưa ra một nghiên cứu hợp lý để tách loài phức hợp này thành hàng tá loài khác nhau. Tôi hài lòng về những gì mà mà trong lúc các tác giả của bản mô tả và những bản thẩm tra có thể đem lại sự thành công của bản thân, sự thành công giữa một bên là bản thân cây Lan đã thể hiện, nhưng dù sao, trong hầu hết các trường hợp thiên tạo hay nhân tạo cũng đều dựa trên các thể trung gian hiện hữu. Chắc chắn rồi, nhóm Cypripedium này may mắn là có nhiều biến loài. Sự thật là, cần phải được trang bị kiến thức để thống nhất về bản chất trong phạm vi các loài phức hợp.

Bởi vì những cây trong phức hợp này là có sức sống rất tốt và đáp ứng được các điều kiện nuôi trồng, có cơ sở để tin vào một giải pháp sẽ sớm đạt được để giải thích những bí ẩn của các loài phức hợp. Những dữ liệu đã thu thập được và đã được sắp xếp để làm sáng tỏ các mối quan hệ vè nguồn gốc và hệ sinh thái học sẽ được tạo ra một sự hiểu biệt vượt trội hơn hẳn những khái niệm hiện nay được dựa trên, một cách không chắn chắn, những tiêu chuẩn về hình thái học sơ khai. Chỉ đến khi có sự tiếp cận đầy đủ đến loài phức hợp này, thì những ý kiến lộn xộn trong việc phân loại vẫn còn tiếp tục không ngừng.

montanum Dougl. Ex Lindl. (xem danh mục xếp theo vần chữ cái) có thể giống loài var. pubescens được mô tả một cách tổng quát ở đây. Các cấu trúc của những biến loài thì rất giống nhau về kích thước cũng như hình dáng. Nhưng dù sao, nếu như alba labellum (cánh hoa giữa, môi, túi màu trắng) chưa đủ để đưa chúng ra khỏi nhóm phức hợp, thì có một loài sinh thái hẹp trong bản phân loại này, đó là loài ưa sống trong môi trường trên vùng núi.

Loài có môi trắng thứ hai là C. candidum Muhl. Ex Wild., lại xuất hiện ở thể trắng hoàn toàn (all alba form), là loài Hài Vệ nữ nhỏ màu vàng (Small Yellow Lady’s Slipper), có tên C. calceolus var. parviflorum. Cả hai loài có môi trắng này được mô tả riêng trong phạm vi chương này.

MÙA RA HOA. Ra hoa đầy đủ từ tháng Tư ở vùng South Deep cho đến tháng Tám ở vùng cực bắc.

TÊN CHUNG là loài Yellow Lady’s Slipper, Yellow Moccasin Flower, Venus’ Shoes (Hài Vệ nữ) là những tên được phổ biến ở châu Âu để dùng cho những loài nói trên. Ở nước Anh, người ta gọi nó là Common Lady’s Slipper. Rất tiếc là hiện nay việc xử dụng tên này không chỉ cho loài này mà còn dùng cho nhiều loài Lan nữa.

Để lại một bình luận

0988110300
chat-active-icon