A. Loài Cypripedium ventricosum
Được thảo luận và minh họa trong tạp chí Người làm vườn (Botanical Magazine), bảng 9117 của năm 1927, loài Cypripedium manchuricum Stapf. được coi là một loài mới. Nhưng thực ra nó chỉ là một cái tên đồng nghĩa với tên của một loài xa xưa là C. ventricosum.
PHÂN BỔ THEO ĐỊA DƯ. C. manchuricum được mô tả như có nguồn gốc từ miền đông nam của Siberia; Theo như mô tả năm 1981 của Slyusarenko thì loài C. ventricosum có mặt ở khắp Liên bang Xô viết cũ. Trải qua nhiều năm, người ta lại tìm thấy chúng ở nhiều địa điểm của châu Á.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Loài này phát triển ở khu vực ẩm thấp, bên rìa các khu rừng già và những khu rừng tạp, ở những vùng đồng cỏ miền núi hay những bụi cây rậm rạp, loài này còn rất ưa thích nơi có các chất mùn làm thành chất trồng, thứ đó có rất nhiều ở các lưu vực sông.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Xem phần môi trường sống của chúng.
MÔ TẢ. Thân cây cao đến 60 cm, có nhiều lông, thường có 5 lá hình ê-lip rộng. Đầu lá nhọn và ở nơi cuống lá có lớp vỏ lụa. Cây mẫu được đem về chỉ có một hoa, rất ít khi thấy chúng có hai hoa. Lá đài sau dài 3-6 cm, rộng 2-2,5 cm, hình ô-van, nhọn phần đầu, che phủ lên cái túi. Các lá đài khác có cùng hình dáng và kích thước. Phần gốc của cả hai lá đài bên đều có lông, phần còn lại thì nhẵn. Màu của các lá đài từ ngả xanh qua trắng đến hồng, đỏ hoặc đỏ tía.
Các cánh hoa của loài C. ventricosum hình mũi mác gấp nếp, đầu nhọn ngay dưới cái túi (hài) và uốn cong như ôm lấy cái túi. Các cánh hoa dài 3-6 cm, rộng 1 cm, có lông tơ đến tận phần túi. Cái túi hình ô-van nhỏ, phồng lên. Đôi khi cái túi có hình bán cầu, nhưng cũng có khi là hình trứng ngược hơi dẹt. Túi có kích thước từ 3-5 cm. Màu của túi giống với màu của hoa, tuy nhiên màu chỗ miệng túi hơi xỉn hơn. Màu của hoa trong thực tế thường hay biến đổi gồm trắng, hồng, kem, đỏ tía và cũng có khi có hai màu trắng và hồng hoặc một chút màu đỏ. Hoa của những cây được sưu tầm từ những vùng trong rừng thường nhỏ hơn và có màu sắc tối hơn, trong khi đó hoa của những cây mẫu lại lớn hơn và màu của túi cũng đa dạng hơn.
MÙA RA HOA. Tháng Năm và tháng Sáu.
B. Cypripedium wardii Xin tham khảo loài C. guttatum Sw. trong các bài đã đăng.
C. Cypripedium wilsoni Rolfe
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Loài lan này được phát hiện ở tỉnh Sichuan, Trung quốc.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. C. wilsoni ưa thích sống trong các khu rừng có nhiều bóng râm, trên độ cao chừng 2.100 m.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Tham khảo cách nuôi trồng của loài C. cordigerum.
MÔ TẢ. Thân cây cao tới 30-37,5 cm, có lông tơ và nhiều lá với lớp vỏ lụa. Những cái lá có lông hình trứng với đầu nhọn và mép gợn sóng. Mỗi lá dài từ 7,5-15 cm, rộng từ 5-12,5 cm.
Cây này chỉ có duy nhất một hoa lớn, chiều ngang hoa đo được 15 cm. Màu cơ bản của hoa là màu vàng; các lá đài và cánh hoa có sọc màu nâu, ở túi có những đốm nâu. Lá đài sau có hình ô-van, đầu nhọn còn các lá đài bên thì hẹp hơn và đầu chia làm hai thùy. Các cánh hoa trải rộng với hình trứng ngược hẹp, nhọn đầu. Môi có dạng trứng và có nếp nhăn.
MÙA RA HOA. Tháng Sáu.
Kỳ sau: Cypripedium wumengense S. C. Chen sp. nov.
Hình trên: Loài Cypripedium ventricosum var. album