GIỐNG CYPRIPEDIUM
A. Loài Cypripedium henryi
Henryi là tên có cùng một nghĩa với C. chinense Franch. Từ trước năm 1984, Atwood đã xếp loại Cypripedium henryi vào cùng họ với C. calceolus.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Phân bố tại các tỉnh Sichuan và Hupei của Trung quốc.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Là loài sống trên núi, tuy nhiên chưa thể xác định được chính xác độ cao mà nó ưa thích. Có thể tham khảo loài C. henryi, đây là loài ưa bóng râm của những bụi rậm hoặc dưới tán rừng thưa.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Những nhà sưu tập cũng như những người đến tham quan nơi nuôi trồng vừa qua có một báo cáo rằng loài này vẫn đang tồn tại. Nhưng cũng bị hạn chế trong việc nhập khẩu. Có thể tham khảo về cách nuôi trồng đối với loài C. cordigerum.
MÔ TẢ. Thân có lông tơ, cao từ 45 đến 60 cm, tính từ thân rễ. Chúng có khoảng 4 – 5 lá, lá có hình ê-lip, nhọn ở đầu, uốn nếp rõ rệt, chiều dài của lá đo được chừng 10 – 20 cm.
Cành hoa mang khoảng 2 – 4 hoa có những phần mang màu xanh vàng và phần túi có màu trắng kem đến vàng. Hoa khá lớn, chiều ngang đo được là 9 cm. Mỗi hoa được nâng đỡ bằng một lá bắc của hoa. Lá đài sau có cạnh sắc, có hình ô-van đến mũi mác rộng. Các lá đài bên có hình ô-van, đầu cánh chia làm hai thùy. Các cánh hoa hình mũi mác có sọc. Túi (hài) có hình cầu.
MÙA RA HOA. Vào khoảng Tháng Sáu.
B. Loài Cypripedium himalaicum Rolfe
Loài này được gộp chung vào một loài có hình dáng cùng họ với loài C. macranthum Sw. C. pulchrum Ames & Schltr. là từ đồng nghĩa.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Loài C. himalaicum được tìm thấy tại Thung lũng Lachen, thuộc Sikkim, Ấn độ; ở thung lũng Chumbi ở dãy núi phía tây của Bhutan, ở Nepal và miền tây Trung quốc. Ngoài ra, C. tibeticum cũng được tìm thấy ở Thung lũng Lachen, như giống Paphipedilum ở Ấn độ.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Chúng sống quanh các khu rừng và bụi rậm, loài này có hoa lẫn với các bụi rậm và đồng cỏ trên nền đá vôi, trên độ cao khoảng 3.000 – 5.300 m. Chúng mọc cùng nơi với loài C. tibeticum.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Tham khảo mục này của loài C. cordigerum.
MÔ TẢ. Thân cây có thể cao đến 30 – 45 cm. Lớp vỏ lụa khô ở gốc trông giống lớp vảy, thân được che phủ bởi các lá. Các lá có hình ê-lip kiểu mũi mác, thông thường có 4 lá, nhưng chiều dài các lá không bằng nhau, lá có nếp gấp rõ rệt. Chiều dài của lá dao động từ 7,5 đến 10 cm. Các mép lá gợn sóng và có lông.
Các lá đài và các cánh hoa có màu xanh vàng, có sọc màu đỏ hoặc màu nâu của gan. Đầu các là đài chẻ đôi. Các cánh hoa buông thòng xuống, hình mũi mác có sọc. cái túi (hài) trông như hình cầu, hai bên trông như bị ép lại, và có những nếp nhăn sâu. Túi thường có màu sắc là màu hạt dẻ tía. Riềm của túi phô diễn một màu trắng kem nhưng sau đó chuyển sang màu xanh vàng với những đốm đỏ.
MÙA RA HOA. Từ tháng Năm đến tháng Bảy.