GIỐNG CYPRIPEDIUM
A. Loài Cypripedium farreri W. W. Smith.
Tuy C. farreri cũng sở hữu những đặc tính nào đó giống với nhóm C. calceolus nhưng nó lại có có cấu trúc giống với nhóm C. japonicum. Vì thiếu một số dữ kiện nên tôi xếp loài này vào chung họ với C. japonicum.
- PHẤN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Người ta cho biết loài C. farreri được tìm thấy ở tỉnh Vân Nam của Trung quốc.
- MÔI TRƯỜNG SỐNG. Chúng sinh trưởng trên lớp lá mục dưới bóng cây trong rừng, sau đó loài này di cư đến những vùng núi đá vôi trên độ cao khoảng 2.300 đến 2.600 m.
- NHỮNG LƯU Ý KHI TRỒNG. Cách trồng cũng giống với trồng C. cordigerum.
- MÔ TẢ. Đây là giống lan lùn có hoa to. Thân cây thanh mảnh đạt độ cao 20 cm. Ở phần trên của thân mọc 2 lá, lá có dạng hình trứng thuôn, đầu nhọn, phiến lá mỏng, ở mép lá có lông mịn.
Một bông hoa đơn có hương thơm, và đo chiều ngang đo được là 9 cm. Lá đài sau có hình ô-van nhưng đầu lá không nhọn. Các lá đài khác có hình ê-lip, đầu xẻ làm hai. Các cánh hoa xoắn lại có các sọc trải hết bề mặt. Túi có hình bán cầu với một cấu trúc nhỏ.
Vàng ngả xanh lá là màu của hoa này, với những sọc màu hạt dẻ trên cả lá đài và cánh hoa. Cái túi màu ngà trông có vẻ ngoài hào nhoáng với phần mép gập lại, tất cả một màu hạt dẻ đậm.
MÙA RA HOA. Vào tháng Sáu.
B. Loài Cypripedium fasciculatum ex S. Wats.
Năm 1930, Darnel đã mô tả loài C. knightae A. Nel. như là một loài trong họ lan nhỏ khá hiếm tại Colorado và Wyoming. Vì những khác biệt được mô tả về kích thước của loài ấy là không đáng kể, và cũng vì loài C. fasciculatum được biết đến do sự khác nhau về độ lớn của cây, nên có thể nói tên của loài loài C. knightae đơn thuần chỉ là đồng nghĩa với loài C. pusillum Rolfe và cũng là đồng nghĩa với loài C. fasciculatum.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Người ta ghi nhận loài này đã được tìm thấy ở Montana, Idaho, Wyoming, Colorado, California, Utah, Oregon, Idaho và Washington.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. C. fasciculatum được tìm thấy ở trong các rừng tùng bách, có nhiều bụi rậm. Chúng ưa sống trên cao và hấp thu độ ẩm trong phạm vi từ sườn đồi khô cạn ở khu vực lầy lội vào thời gian có mưa xuân. Loài lan hài này ưa loại đất pha acid.
NHỮNG LƯU Ý KHI TRỒNG. Loài này không được trồng nhiều và cũng không nên trồng ở nơi có khí hậu ấm áp, ở nơi mà chỉ thỉnh thoảng mới có tuyết rơi.
- MÔ TẢ. Về mặt hình thức bề ngoài, loài này thuộc loại bất bình thường, và hoa của nó thường mọc thành chùm. Khi cây đã ra hoa, chúng đạt chiều cao khoảng 30 – 35 cm (tính cả hoa). Cây lan có hai lá mọc đối xứng nhau, với chiều cao của lá chừng 15 – 20 cm. Lá uốn nếp, có hình ô-van rộng, đầu lá không nhọn và thường là lượn tròn, chiều dài của lá là khoảng 5 – 10 cm và rộng khoảng 3 – 6 cm. Gốc cây được bao bọc bởi lớp vỏ lụa màu nâu.
- Vòi hoa cao khoảng 10 – 15 cm tính từ lá và trên cuống hoa có khoảng 2 đến 4 hoa. Hoa có màu chủ đạo là màu đỏ đậm, nhưng dù vậy có khi người ta cũng thấy có cây có màu hoa vàng ngả xanh.
- Lá đài sau có hình mũi mác và nhọn ở đầu. Chiều dài của nó đo được khoảng 1,5 – 2,5 cm và rộng từ 3 đến 6 cm. Các lá đài bên với phần ngọn chẻ làm hai có vẻ ngắn hơn nhưng rộng hơn lá đài sau một chút.
- Các cánh hoa dẹt có hình mũi mác to bản và nhọn đầu, chiều dài đo được từ 1,5 đến 2,5 cm và rộng khoảng 0,6 đến 1,7 cm. Cái túi dài có hình giống cái muỗng múc canh, vùng ngoại biên phồng lên. Chiều dài của túi chỉ đo được kích thước trên 1 cm và rộng dưới 1 cm. Nhìn vào cái miệng túi (hài) có mép sâu.
- MÙA RA HOA. Vào khoảng từ tháng Tư qua tháng Tám, tùy thuộc vào độ cao nơi cây Lan sinh sống.
- TÊN CHUNG. Tên thường dùng nhất là Lan hài vệ nữ mọc thành cụm (Cluster Lady’s Slipper). Nó phản ánh loài fasciculatum, điều đó có nghĩa là “bó” hoặc “cụm”./.