Anacamptis
- Tông: Orchideae
- Tông phụ: Orchidinae
- Nguồn gốc tên gọi: Tiếng Hy Lạp anacampo có nghĩa là uốn ngược về sau, nói về khối phấn, hoặc cái cựa hoặc tính đối xứng của đầu lá bắc của hoa.
- Phân bố: Có khoảng 12 loài ở châu Âu, miền tây Châu Á và miền bắc Châu Phi.
Là loài Địa Lan, với thân củ hình cầu. Lá không có đốm. Vòi hoa có thể có nhiều hoa mọc sít nhau, tạo thành hình kim tự tháp hoặc hình trụ. Hoa nhỏ thường có màu hồng hoặc màu hoa tử đinh hương. Lá đài sau và các cánh hoa thường tạo thành một cái nắp, các lá đài dưới phẳng. Môi hoa giống cái cựa, có thể có 3 thùy cũng có thể không. Khối phấn: 2
Mãi cho đến gần đây giống này chỉ bao gồm có 1 loài, đó là Anacamptis pyramidalis, nhưng khi kiểm tra phân tử thì người ta kết luận rằng có một số loài Lan nên đưa vào đây.
Cách trồng
Hầu hết các loài thuộc giống này đều thích hợp với đất kiềm hoặc đá vôi, thoát nước tốt. Là loài Địa Lan, chúng có thể được trồng trong những chậu nông với chất trồng thông thường dành cho Địa Lan, bổ sung thêm một ít đá vôi, một ít cỏ đã cắt ngắn. Nên lưu ý thường xuyên đừng để cho cỏ mọc cao. Hầu hết các loài vào mùa đông lá trở nên có hình hoa thị, nhưng vẫn xanh tươi, sau đó lá tàn đi và chồi hoa sẽ xuất hiện. Hoa nở vào mùa xuân.