Acanthephippium
- Tông: Collabieae
- Nguồn gốc tên gọi: Trong chữ Hy Lạp Acantha nghĩa là có gai, chữ ephippion nghĩa là cái yên ngựa, vì môi của hoa giống cái yên ngựa
- Phân bố: Bao gồm khoảng 12 loài từ Châu Á nhiệt đới đến vùng viễn đông Fiji. Là giống Địa Lan đa thân, rất gần với giống Calanthe và Phaius, với giả hành lớn hình trứng là những cái rễ mập mạp. Lá nhọn, thường có 3 lá lớn, có cuống và quăn mép. Vòi hoa mọc thành chùm, ngắn hơn lá của nó và cũng không có nhiều hoa. Hoa có hình chiếc ly (cốc), trên mặt cánh hoa như có lớp sáp, thông thường hoa chỉ hai màu là vàng hoặc hồng, có hương thơm. Các lá đài liền với nhau, bọc lấy cánh hoa và môi, môi có ba thùy. Trụ hoa ngắn và chúc xuống và liên kết với hai lá đài dưới tạo nên như cái cằm. Lan có 8 khối phấn.
Cách trồng
Loài Lan này nên được trồng ở vùng có nhiệt độ trung bình ở những khu lòng chảo, các chất trồng cần được thoát nước tốt và nên để chúng ở nơi râm mát. Trong thời kỳ phát triển thì không hạn chế tưới nước và bón phân. Nhưng khi lan đi vào thời kỳ nghỉ thì ngưng tưới và để chúng ở chỗ mát. Loài Lan này không ưa ‘bị quấy rầy’, tức là chỉ nên thay chậu khi thấy thật cần thiết.