CÁC HÌNH THÁI TIẾP THEO LAN CATTLEYA TIÊU CHUẨN
Tác giả: Donald E. Herman
Donald E. Herman tiến hành khảo sát các trạng thái của lan cattleya và họ hàng nhà nó, ông đã đóng góp cho sự phát triển các loài Lan lai có hoa lớn.
Xin giới thiệu bài viết của ông.
Trong việc lai tạo giống cattleya tiêu chuẩn, người ta nhận ra những ảnh hưởng cũng như chất lượng của những trạng thái nào đó. Khi tham khảo giống lan cattleya này, cơ sở để xem xét là loài chỉ có một lá (lá đơn) và cho hoa lớn, và có hình dạng tròn, khép kín.
Trong khi hầu hết các loài dùng để khảo sát là loài cattleya lá đơn, người ta cũng khảo sát loài lá kép gồm hai loài, một thuộc laelia và một là brassavola, cả hai loài này có liên quan mật thiết trong việc tạo ra một thế hệ mới. Với mỗi loài sẽ bao gồm phần lịch sử ngắn gọn để giới thiệu và một vài đặc tính, kể cả đặc tính tốt và không tốt, những điều đó sẽ giúp ích tốt cho việc xác định loài mới trong quá trình lai tạo.
Loài Cattleya dowiana được giới thiệu trong cuốn Danh mục các loài Lan lai của Sander, thực ra là bao gồm hai loài. Đầu tiên là C. dowiana, đó là loài có nguồn gốc từ Costa Rica, và được tìm thấy đầu tiên bởi Warscewicz vào năm 1865. Ông ấy nhận ra chúng từ bản mẫu đã khô vì hoặc là nó đã không tồn tại hoặc là bị phá hoại sau khi ông ấy tới châu Âu. Một lần nữa người ta lại tìm thấy vào năm 1865 bởi M. Arce, một nhà tự nhiên học, người đã thu thập được khi nó còn sống theo yêu cầu của George Ure Skinner, và đã chuyển về Anh quốc. Hoa của nó lớn cỡ 5 đến 7 inches (1inch = 2,54 cm) tính theo chiều ngang, và có cái môi vàng với nền màu nhung đỏ đậm cùng những đường gân màu vàng kim. Đôi khi các cánh hoa cũng có những đường gân đỏ trong một chừng mực nào đó. Những loài này khá khó trồng.
Loài thứ hai là Cattleya aurea, có xuất xứ từ Columbia. Lần đầu tiên được ông Jean Linden đưa đến châu Âu vào năm 1881. Loài này có màu vàng sáng hơn và sâu hơn loài C. dowiana và có cặp mắt lớn màu vàng hoặc có điểm nhấn ở họng và trên môi. Loài này dễ ra hoa hơn C. dowiana và đã được dùng để lai tạo để có được bông hoa lớn hơn so với họ hàng miền bắc của nó. Cả hai loài đều ra hoa vào cuối mùa hè và đầu mùa thu và chúng truyền cái mùi hương chanh cho con cháu chúng. Khi lai với các cây cattleya có màu đỏ tía, màu sắc của chúng sẽ nổi bật lên màu đỏ tía đậm và màu tím đỏ xuất hiện trong những cây lai như Braasolaeliocattleya Norman’s Bay và Brassolaeliocattleya Oconee. Điều này khuyến khích chúng ta xử dụng chúng để lai tạo. Không may, không chỉ những người mới vào nghề là cả hai loài này hình như dễ bị tổn thương hoặc hình thành những điểm thối rữa nào đó. Cả hai hình như di truyền cho con cháu chúng tình trạng biến dạng sau một ít năm. Bằng cách lựa chọn loài khác để lai tạo, tuy một sối ít trong số đó có chất lượng không thật tốt song vấn đề chất lượng lại được bảo đảm. (Còn nữa)
CÁC HÌNH THÁI TIẾP THEO LAN CATTLEYA TIÊU CHUẨN (Tiếp)
Cattleya gaskelliana xuất xứ từ miền đông bắc Venezuela và được bán đấu giá bởi Stevens ở London năm 1883. Lúc ấy, tên của nó là Holbrook Gaskell, một nhà nông học đồng thời là nhà sưu tập, người có một bộ sưu tập đẹp ở gần Liverpool. Loài này xuất hiện dưới nhiều hình thức, gồm cả giống màu hoa oải hương, semi-alba, alba và coerulea. Môi của nó thường có màu giống nhau và ở họng có những đốm màu cam. Môi giống như miệng cái kèn trumpet trông rất đáng yêu. Trong việc lai tạo, điều xét đến đầu tiên là tính chất phát triển mạnh mẽ và thời gian ra hoa của chúng là vào cuối mùa xuân, đầu mùa hạ, Hoa thường khá lớn. Trong quá khứ, nó được trồng khá thành công loài có hoa màu xanh dương. Đồng thời cũng là một thành công quan trọng khi lai tạo với dòng hoa trắng như C. gaskelliana. Không may là trong những năm gần đây những nhà lai tạo không dùng nhiều loài này, nhưng chúng có tiềm năng lớn đối với hiện nay cũng như trong tương lai.
Cattleya labiata, được William Swainson tìm thấy vào năm 1818 ở miền bắc Rio de Janeiro, Brazil. Không lâu sau khi người ta thấy ở Organ Mountains, đa có giả thiết cho rằng nhiều nhà sưu tập đã bị mất loài này, các nhà sưu tập đã bỏ công sức đi tìm kiến loài “Vua của Cattleya” trong suốt 50 năm. Thỉnh thoảng người ta cũng có đồn đãi về chúng, rằng cây nguyên thủy đã được dùng để làm vật mẫu. Ông William Cattley, một nhà văn hóa làm vườn của Anh quốc, người đầu tiên làm cho nó nở hoa và nhà làm vườn John Lindley đã đặt tên cho giống này sau tên Cattleya là lên của người bạn và cũng là ân nhân. Tên này được trình bày trong cuốn Collectanea Botanica, xuất bản năm 1821, và từ đây trở thành một giống lan. Chữ labiata là để chỉ một phần trong tên lan, căn cứ vào kích thước lớn của môi và màu sắc nổi bật của nó. Có những sự biến đổi hình thể như là alba, semi-alba, lavender và coerulea vẫn đang tồn tại. Trong tất cả các cây lai và ra hoa vào mùa thu có những đường gân màu huyết dụ ở các cây lai có hoa màu tím đỏ đậm. Màu sắc của hoa, hình dáng, hương thơm với cái môi rực rỡ loài C. labiata đã hấp dẫn các nhà lai tạo giống, và làm cho chúng có đặc tính hoa lớn và câ cứng cáp. Những nhà lai tạo không thích loài có giả hành dài, điều đó sẽ dẫn tới cây Lan nhanh mọc tràn ra bên ngoài chậu.
Cattleya lueddemanniana được Reichenbach mô tả vào năm 1854 mà ông ta đã nhìn thấy trong một sưu tập cá nhân ở Pháp. Cây lan được đặt với tên của ông Luddemann, một người làm vườn rất thành thục, và cũng là chủ nhân cây này. Đồng thời năm 1863 người ta cũng tìm thấy nó trong một bộ sưu tập ở Scotland song dưới một cái tên khác. Cây này được tìm thấy ở dọc bờ biển của Venezuela và có lẽ chúng ưa nhiều sáng, nhiệt độ cao và nhiều không khí luân chuyển nếu so với các loài cattleya khác. Do những nhu cầu này làm cho một số người trồng cảm thấy khó trồng hơn với một số ít cây còn trong bộ sưu tập.
Về màu sắc, gồm trắng, xanh dương, màu hoa oải hương hồng, tím đỏ đậm. Các hoa có thể là rất lớn, lớn nhất là 8 inch (1 inch = 2,54 cm) và kết cấu đẹp. Hy vọng có thể có 3-4 nụ trên một chồi hoa của một cây nhỏ gọn. Trong những năm vừa qua người ta ít dùng loài này để lai tạo, mặc dù C. luddemanniana khi ra hoa thì hoa có màu sáng và kết cấu hoa đẹp. Nổi danh nhất là cây C. luddemanniana có hoa màu đỏ tía lai với nửa kia là Laeliocattleya Lustre. (Còn tiếp)
Tiếp theo…
Cattleya maxima, là một loài có xuất xứ từ Ecuador, chúng gồm hai loại. Một loài xuất xứ từ vùng bình nguyên và rất chăm ra hoa, với số hoa trên một chồi hoa chừng 14 hoa. Loài này mọc cộng sinh trên các cây ở vùng đất thấp, song nó to hơn bất kỳ loài cattleya nào. Trong khi đó những cây mọc ở độ cao cao hơn thì kích thước hoa lại bình thường. Những cây thuộc loài này được phát hiện vào năm 1777 bởi những người làm vườn Tây-ban-nha, Ruiz và Pavon, và 55 năm sau chúng được John Lindley mô tả từ một vật mẫu đã làm khô. Đến năm 1842, Karl Hartweg, tiếp đến năm 1855 được W. Farmer mô tả theo một cây đang còn sống. Ở Ecuador người ta đặt tên cho cây này là Flor de Navidal hoặc còn có tên là Christmas Flower, để nói lên rằng mùa ra hoa của loài này là từ tháng Mười đến đầu mùa xuân. Màu hoa của loài này đặc biệt hấp dẫn bởi cái màu nền của môi là cùng màu với phần còn lại của hoa. Những cây mọc trên vùng cao thường có màu hoa oải hương nhưng đậm hơn. Hiếm khi ta thấy loài có hoa trắng. Một số nhà lai tạo giống cảm thấy C. maxima là một giống lớn, mọc thẳng với những vòi hoa đẹp, số lượng hoa nhiều và kết cấu hoa cũng đẹp.
Cattleya mendelii có xuất xứ từ sườn núi Eastern Cordillera thuộc Columbia và cây cha mẹ của nhiều loài lai để các nhà lai tạo thích tạo thành từng khóm lớn. Chúng được giới thiệu lần đầu tiên vào năm1870 bởi Hugh Low, và không lâu sau đó bởi ông bà Backhouse, người đã lấy tên người bạn của họ là Samuel Mendel để đặt tên cho nó. Hoa của loài này thường là màu hồng đậm với cái họng và trụ hoa màu trắng. Phần gốc môi của nó có màu hoa oải hương đậm. Các khảo sát của những nhà lai tạo cho biết C. mendelii ra hoa vào tháng Năm, và vì thế có thể kéo dài mùa hoa của các thế hệ sau của nó tới cuối mùa xuân và đầu mùa hạ. Hoa có kích thước từ 7 đến 8 inches trong tự nhiên và cũng trồng thành công các cây này như những khóm nhỏ. Hoa của loài này đôi khi không thật sự đúng với bản chất của nó, nhưng yếu điểm này có thể khắc phục được bằng cách các nhà lai tạo chọn lựa đúng loài gốc của nó. Mặc dù ngày nay không còn được xử dụng rộng rãi, những cây sau vẫn được dùng làm cây cha mẹ trong lai tạo, đó là Cattleya Suavior, Cattleya Octave Doin và Cattleya C. G. Roebling. (Còn tiếp)
Cattleya mossiae được đáng giá là những loài cattleya đẹp nhất. Xuất xứ của nó từ vùng núi dọc the ờ biển phía bắc của Venezuela, từ đó chúng được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1936 bởi George Green ở Liverpool. Lần đầu tiên ra hoa trong nhà kính của bà Moss. Tên của bày ấy được Sir William Hooker đặt cho loài Lan này. Loài này thực ra có nhiều dạng khác nhau như là alba, hồng, màu hoa oải hương, màu coerulea (?) và semi-alba, nhưng thường môi của chúng đồng màu với các cánh hoa, một phần của môi có những đường kẻ màu hồng đậm. Chỉ có loại wageneri và loài alba là có môi màu vàng. Nó đã được dùng để tạo ra loài ra hoa vào mùa xuân. Đôi khi người ta coi C. mossiae là loài Lan của lễ Tạ ơn (Easter), và qua nhiều năm nó trở thành loài hoa cắt cành giữ một vai trò quan trọng. Không những thế, nó còn là một loài Lan có tân hình nhỏ gọn và cứng cáp. Nó có thể trở thành những cây mẫu trông rát ngoạn mục, mùi hương của nó đôi khi giống mùi tỏi.
Cattleya percivaliana đã được gọi với cái tên là Flor de Libertador, cái tên được xuất xứ từ Venezuela, đó là tên một người anh hùng của Nam Mỹ, Simon Bolívar vì vẻ đẹp quyến rũ của cây này. Nhà sưu tập Arnold đã đem về cho công ty Sander vào năm 1882. Nghe nói lúc đó người ta thấy nó mọc trên độ cao 4.000 ft gần hồ Maracaibo. Tên của loài Lan này được đặt theo tên một nhà chơi lan nghiệp dư, M. M. Percival. Thông thường màu của chúng là màu hồng hoa oải hương sáng, màu của môi cũng là màu hoa oải hương nhưng đậm hơn, họng hoa có những đường gân màu cam, Môi thường có tua với màu hồng nhạt. Loài này không phải chỉ có một màu, mà chúng còn có những màu khác như trắng, semi-alba và xanh dương. Loài có màu hoa oải hương đẹp nhất, có lẽ là ‘Summit’ (thượng đẳng), đã được giải thưởng cao của Hội Hoa lan Hoa kỳ, nó có mùi hương giống mù tạt và ra hoa vào mùa đông. Những nhà lai tạo thích chúng vì chúng có thân hình nhỏ gọn, hoa cứng cáp, tuy hoa của chúng có vẻ nhỏ hơn so với các loài cattleya tiêu chuẩn khác.
Cattleya schroderae có quan hệ gần gũi với Cattleya trianaei nhưng chúng có mùi hương hấp dẫn hơn, và vẻ đẹp của các cánh hoa và môi cũng như họng hoa có màu cam. Nơi sống quen thuộc của loài này là vùng núi phía đông của Columbia. Năm 1885, loài này đã được đưa vào châu Âu lần đầu tiên. Màu sắc của C. schroderae thì dịu dàng và tĩnh lặng, tính chất này hình như bị lặn đi khi lai tạo. Hình dáng của hoa đẹp, giống như hoa của loài C. trianaei. Có khá nhiều loài alba, hình thái màu kem, màu hồng phớt và màu coerulea. Những loài này cho hoa to, được tạo hình đẹp trên một cán hoa mập, có hai hoa là một yếu tố mà các nhà lai tạo thích thú. Vào mua xuân hoa nở ở dộ lớn nhất.
CÁC HÌNH THÁI TIẾP THEO LAN CATTLEYA TIÊU CHUẨN (Tiếp)
Cattleya trianaei, xuất xứ từ Columbia, lần đầu tiên người ta tìm thấy chúng trong bộ sưu tập các cây được gởi tới nước Anh, với tên gọi lúc đó là Rucker. Cho mãi đến năm 1864 Reichenbach mới lấy tên nhà làm vườn người Columbia để đặt tên cho loài Lan này, đó là ông José Jeroniomo Triana. Loài này đã có những sự chuyển tiếp về hình dạng, kết cấu và màu sắc, cho đến ngày nay thì nó có màu hồng, màu hoa oải hương và trắng rất đẹp. Về hình thức màu sắc, còn phải kể đến xanh dương, màu bừng sáng của cánh hoa. Số lượng hệ vô tính của loài này là rất lớn. Cattleya trianaei sống trên vùng núi rộng lớn của Columbia. Kích thước của hoa đạt tới 6 – 9 inches và có một mùi hương dễ chịu. Là một trong những loài Lan phổ biến nhất trên thế giới, người ta yêu thích chúng vì chúng có các lá đài và cánh hoa lớn công với màu sắc phong phú. Mùa đông chính là mùa ra hoa của loài này. Những nhà lai tạo đã lợi dụng tính ưu việt của loài này để lai tạo trong suốt hơn một thế kỷ. Một vài mẫu vật của loài này là có tính đa bội cao nhất trong thiên nhiên. Nếu như có một loài được lựa chọn có ảnh hưởng trong việc lai tạo một giống lan, thì đó chính là Cattleya trianaei.
Cattleya warneri xuất xứ từ miền nam lục địa Brazil, có thể loài này có quan hệ gần gũi với C. labiata, điểm khác biệt chỉ là loài này có hoa lớn hơn và màu cơ bản là hồng của hoa oải hương. Chúng được tìm thấy dưới các dạng màu sắc khác nhau bao gồm xanh dương, alba và semi alba. Môi có hình chiếc kèn trumpet với cái họng có màu cơ bản là vàng kim đến màu vàng kem. Nhiều cây có đường gân màu đỏ tía đến màu đỏ tía sẫm trên môi hoa, điều đó để phân biệt với loài C. labiata. Mùa ra hoa của loài này là vào mùa xuân, khác với loài C. labiata ra hoa vào mùa thu. Cây Cattleya warneri ra hoa lần đầu trong bộ sưu tập của ông Robert Warner vào năm 1860. Cây này đến từ bộ sưu tập của ông bà Low & Co. và được đặt tên bởi nhà làm vườn của Anh quốc Thomas Moore để tôn vinh sự đóng góp của Warner vào công cuộc nghiên cứu về lan. Cũng không may, loài C. warneri lại có kết cấu hoa không đẹp hoặc các cánh hoa không kín, nhưng một khi, các nhược điểm trên được cải thiện thì nó lại trở thành một loài Lan nổi tiếng. Những đặc tính mà lôi cuốn những nhà lai tạo như cánh hoa cứng cáp, thân nhỏ gọn và mùi hương hấp dẫn, đồng thời cũng xét thời mùa ra hoa của chúng.
CÁC HÌNH THÁI TIẾP THEO LAN CATTLEYA TIÊU CHUẨN (Tiếp theo và hết)
Cattleya warscewiczii được phát hiện lần đầu bởi Josef Warscewicz trong khu vực gần Medellin, Columbia, vào năm 1848. Các cây của ông ấy đã bị hủy hoại, và Reichenbach đã phải mô tả dựa trên mẫu cây khô. Tiến sĩ Triana đã gởi một ít cây tới Jean Linden ở Bỉ, và chúng thường được gọi là Cattleya gigas, vì hoa của chúng khá lớn, nhưng gọi tên là Cattleya warscewiczii mới đúng. Như là một cây cha mẹ, khi lai tạo đã thành công lớn với bông hoa to, cứng cáp và màu sắc cái môi của nó trông rất bắt mắt. Một loài vô tính nổi tiếng nhất thời đó là ‘Firmin Lambeau’, một loài có hoa trắng alba và loài ‘Frau Melanie Beyrodt’ thuộc loài semi-alba. Một trong những loài được lai tạo thành rất quan trọng là Cattleya Enid, là loài có nhiều hứa hẹn để tạo ra loài có các màu như trắng, màu hoa oải hương, semi-alba và xanh dương.
Cattleya xhardyana nó không hẳn là một loài, nhưng có thể chúng đã lai tạo thành trong tự nhiên (aurea x warscewiczii). Do nó khá quan trọng trong việc nuôi trồng những cây có tiêu chuẩn đẹp, như chúng tôi đề cập ở dưới đây. Loài lan lai này được giới thiệu lần đầu tiên ở châu Âu trong một chuyến tàu vận chuyển C. warscewiczii tư Columbia tới, và đã cho hoa trong bộ sưu tập của G. Hardy of Timperly, Anh quốc. Những màu sắc khác nhau đã được tìm thấy, bao gồm semi-alba, màu hoa oải hương, màu vàng phớt và màu trắng kem, song tất cả chỉ khác là cái môi lớn có màu đỏ thẫm và mắt màu vàng kim ở họng. Cái môi cùa hardyana đã trở nên hấp dẫn đối với các nhà lai giống. Một yếu tố khác mà người ta ưa dùng loài này để lai tạo là sức sống mãnh liệt, vì hình như nó đã không khó khăn như khi ta trồng C. aurea.
Có một loài không ghép vào cùng với các loài Cattleya tiêu chuẩn như là C. trianaei, C. labiata hoặc C. mossiae, nhưng chắc chắn nó có ảnh hưởng nào đấy đến loài “tiêu chuẩn”, đó là Cattleya bicolor. Các lá cứng cáp có thể truyền cho con cháu của nó những tính chất tốt cũng như xấu, chỉ có loài có hứa hẹn để làm cây cha mẹ là loài có màu vàng hoặc xanh lá. Một trong những thế hệ con cháu của loài này được xử lý bởi Joseph Charlesworth Company ở thởi điểm gần chuyển thế kỷ, là loài Cattleya Iris (dowiana x bicolor). Chúng ta có thể thấy đặc điểm di truyền ở các cây có màu vàng và màu đồng. Trong quá trình lai tạo, những loài có chất lượng tốt là những loài ra hoa vào mùa hè, hai lá to khỏe, cuống hoa cứng cáp, với màu vàng hoặc màu đồng . Một yếu điểm của loài này là kích thước của hoa và hình dạng của môi. Loài có hoa màu xanh lá với cái môi trắng được xử dụng thành công khi cho ra loài xanh lá rất đẹp. Hầu hết con cháu của loài C. bicolor thường cho hoa màu vàng hoặc màu đồng, song với một cây cha mẹ nào đó nó lại cho ra màu hoa nâu đỏ rất đậm. Có thể ghi nhận các loài Cattleya từ Brazil như C. Iris, Cattleya Adula, Cattleya Golden Gate, Brassocattleya Binosa,, Brassolaeliocattleya Chinese Bronze, Laeliocattleya Isotta và Potinara Egyptian Qeen./.
Hình trong bài: Cattleya dowiana ‘Broadbow’ (Nguồn AOS)