- Tông: Vandeae
- Tông phụ: Angraecinae
- Phân bố: Trên 220 loài ở Châu Phi, Madagascar, quần đảo Mascarene, quần đảo Comoro và Seychelles, có 1 loài ở Sri Lanka.
- Nguồn gốc tên gọi: tên gọi được La-tinh hóa từ tiếng Malay angurek cho bất kỳ loài Lan nào có rễ lộ ra trong không khí.
Là loài Lan biểu sinh hoặc Thạch Lan (ít khi thấy chúng là Địa Lan), là loài có thân từ nhỏ đến lớn, đơn thân, do đó thân có thể thấp hoặc cao, thân được bao bọc bởi phần gốc của lá. Lá thường xếp thành hai dẫy, có nhiều hình dạng khác nhau. Vòi hoa mọc từ nách lá, ít khi phân nhánh, có ít nhất là một hoa. Trong giống này có loài có hoa rất lớn song cũng có loài hoa thật nhỏ. Màu sắc của hoa thường là trắng, ngả vàng hoặc xanh lục. Loài có hoa màu trắng, cựa dài có đặc điểm là hương rất nồng khi trời tối, bao phấn hình bướm. Các cánh hoa và lá đài tương tự như nhau, thường là phẳng. Có loài môi có ba thùy nhưng cũng có loài môi tròn, hình lòng chảo, phần chân của môi ít nhiều cũng bao quanh chân trụ hoa. Cựa hoa chẻ đôi, ngắn hoặc dài tùy loài. Có 2 khối phấn.
Angraecum eburneum và Angraecum calceolus là hai loài chỉ xuất hiện ở lục địa châu Phi và các quần đảo ở Ấn độ dương. Mặc dù có nhiều loài lớn hơn ở Madagascar đã được dùng để lai tạo nhưng việc lai tạo với giống lan này cũng không mang lại nhiều kết quả, nhất là Angraecum eburneum, Angraecum magdalenae và Angraecum sesquipedale.
Cách trồng
Nhiều loài thuộc Angraecum được trồng trong bóng râm, và cũng phát triển tốt ở những vùng có khí hậu ấm hoặc nhiệt độ trung bình. Những loài bò leo hoặc có thân nhỏ, có thể trồng ghép, còn hầu hết các loài thuộc giống này đều được trồng với các chất trồng như với các loài Lan biểu sinh khác và được trồng trong chậu. Nên dùng những chất trồng có kích thước lớn hơn do chúng có bộ rễ lớn. Nên dùng một cái cọc để cho chúng leo lên đối với những loài có thân cao như Angraecum birrimense và họ hàng nhà chúng. Nếu thấy chúng phát triển chậm thì nên giữ cho chúng được khô dù hầu hết đều yêu cầu có độ ẩm cao.