GIỐNG CYPRIPEDIUM
A. Loài Cypripedium lanuginosum
Cypripedium lanuginosum (cùng nghĩa như loài C. lanuginosa) chúng cùng họ với C. himalaicum và là một loài Lan lùn.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Miền tây Trung quốc.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. C. lanuginosum thích sống trong các rừng già và là loài sống trên núi. Môi trường sống của chúng không khác gì loài C. himalaicum.
NHỮNG LƯU Ý KHI TRỒNG. Tham khảo cách trồng loài C. cordigerum.
MÔ TẢ. Có lớp lông tơ dầy đặc ở các phần của thân và hoa của loài này, do đặc điểm này mà người ta đặt tên cho chúng như vậy. Cây xuất phát từ thân rễ, mảnh mai, cái thân có nhiều lông, có 2-3 lá, cao tới 15-25 cm. Lá có hình ê-lip, nhọn đầu, những cái lá có lông ôm sát lấy phần gốc của thân. Chiều dài lá đo được 7,5-11,5 cm.
Đo chiều ngang của hoa được chừng 6 cm và chỉ duy nhất có một hoa. Lá đài sau hình ê-lip, đầu nhọn, dựng đứng. Các phần ngọn lá đài khác đã nhọn sinh khi ra rồi. Các cánh hoa đầu cũng nhọn, hình mũi mác phẳng. Bầu nhụy (túi) hình trứng. Các cánh hoa cũng như lá đài có các sọc màu hạt dẻ, hoa màu vàng ngả xanh ở chung quanh, trong khi túi tràn một màu nâu đến màu cà tím.
MÙA RA HOA. Tháng Tám
B. Cypripedium luteum Tham khảo phần nói về C. flatum Ward.
C. Loài Cypripedium macranthum
Loài lan hài phương đông này tạo thành một họ khác bao gồm C. corrugatum, C. fasciolatum, C. himalaicum, C. speciosum, C. thunbergii, C. tibeticum, C. wilsonii và C. yunnanense vì nó có họ hàng với nhiều loài của châu Á.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Manchuria ở miền bắc Trung hoa, Nhật, Korea,Kamchatka, Siberia và Đông Âu, tất cả nơi ấy đều thống kê vào hệ thực vật của họ.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Môi trường sống của C. macrathum ở cả những vùng cao và vĩ tuyến bắc. Loài lan có hoa đẹp này hấp thụ rất ít nhiệt vào mùa hè, ưa sống ở vùng có khí hậu lạnh và phát triển tốt trong vùng có nhiều sáng. Người ta thường thấy chúng ở trên các triền núi, các nơi cỏ mọc.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Tham khảo cách trồng loài C. cordigerum và xem những thông tin về môi trường sống ở trên.
MÔ TẢ. Loài này mang trên nó 5-7 lá xếp cân đối trên một thân có nhiều lông tơ, đạt độ cao tới 30-50 cm. Hiếm khi thấy có hai hoa, thường chỉ có một hoa. Lá đầu nhọn, gấp nếp sâu, hình mũi mác ô van. Thân có vỏ lụa bọc. Lá dưới thấp có kích thước lớn nhất, rộng 8-10 cm, dài tới 20 cm. Các lá trên nhỏ lại gần giống với lá bắc của hoa, rộng 4-6 cm, dài 6-10 cm.
Chỉ một bông hoa, đo theo chiều ngang được 7-9 cm, màu sậm hoặc màu đỏ tía hoặc màu hồng. Người ta biết loài C. macranthum var. rebunense, một loài đặc hữu của đảo Rebun thuộc Hokkaido, là loài hiếm, có hoa màu vàng và một loài có hoa trắng, đó là var. albiflorum.
Một cái mũ chụp lên bầu nhụy là hình của lá đài sau. Nó có đầu nhọn, hình trứng rộng, chiều rộng 3-4 cm, dài đo được 4-5 cm. Lá đài sau có hình trứng rộng và đầu nhọn, dài chừng 4-5 cm, rộng 3-4 cm. Các lá đài bên thì nhỏ hơn nhiều, chỉ đo được 1,5-2 cm chiều rộng và 3-4,5 cm chiều dài.
Các cánh hoa phẳng, uốn cong về phía trước ôm lấy lưng của bầu nhụy (túi), Cánh hoa hình mũi mác, nhọn đầu, rộng 1-1,5 cm, dài 3,5-4 cm. Túi (hài) rộng và mép túi uốn vào trong, mặt trên tròn. Phần túi có gấp nếp như nếp nhăn.
MÙA RA HOA. Tháng Năm và tháng Sáu.
NHỮNG TÊN CHUNG. Không có tên tiếng Anh vì đây là loài Lan phần lớn sống ở châu Á. Nhưng nếu theo Nhật thì tên tiếng Nhật của nó là “Atsumori’s herb”, là tên gọi để kỷ niệm một chiến binh thời xưa./.
D. Cypripedium manchuricum, xin tham khảo bài nói về loài C. ventricosum