Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)
62) Paphiopedilum henisianum (M. W. Wood) Fowlie
Tên cũ
Paphiopedilum barbatum subsp. Lawrenceanum var. hennisianum M. W. Wood
Dẫn nhập
Giở lại bản tham luận về khái niệm của Paphiopedilum hennisianum của Gustav Schoser, tại Hội nghị về Lan Thế giới tại Bangkok năm 1969, sau này ông trở thành giám đốc của Hiệp hội những người làm vườn Frankfurt ‘Palmengarten’, trong đó ông đã công bố dự định của mình về việc mô tả một số loài Lan mới, trong đó có một cây có gốc ở Philippines, để đặt tên theo tên người bạn của mình, đó là nhà làm vườn người Đức Kurt Hennis. Trong thực tế, chưa bao giờ Schroser xem xét giá trị của dòng này như ông ta nói khi ở Bangkok. Vào năm 1976, một nhà làm vườn của Anh tên là Mark W. Wood đã mô tả dòng này như là một biến loài của Paphiopedilum lawrenceanum, đó là vào thời điểm ông ta coi đó là một phụ loài của Paph. barbatum. Một năm sau, cây Lan này lại được Fowlie đưa lên thành một loài, có tên là Paph. hennisianum. Trong khi đó, năm 1987 Gribb đã thừa nhận Paph. hennisianum là một loài, vào năm 1988 Braem, trong một lần xem xét về các giống lan coi Pap. Lawrenceanum là một sự trùng tên. Một sự xem xét lại các thông số hình thái học karyo được công bố tếp theo (Karasawa, 1979) đã không thừa nhận Paph. hennisianum là một loài riêng biệt, mặc dù loài này có quan hệ chặt chẽ với Paph. lawrenceanum.
Nguồn gốc tên gọi
Đặt tên cho loài này để vinh danh cho một người rồng lan nổi tiếng ở Hildesheim, thuộc Đức, có tên là Kurt Hennis.
Mô tả
Paphiopedilum hennisianum là một loài có nguồn gốc thảo mộc, mọc ở nơi có nhiều mùn và lá cây mục. Chúng mọc thành cụm. Mỗi thân cho ta từ bốn đến sáu lá, lá có hình ê-lip hẹp đến ê-lip; đầu lá có ba răng cưa nhỏ, đôi khi đầu nhọn và đôi khi không. Lá dài tới 18 cm và rộng khoảng 4 cm. Mặt trên của lá có nhiều vết đốm màu xanh đậm nhạt xen lẫn, phần gần cuống lá có lông. Vòi hoa cao đến 38 cm, mà xanh, pha trộn với màu đỏ tía xỉn, và phủ đầy lông. Thông thường mỗi vòi hoa có một hoa. Lá bắc của hoa hình trứng hoặc hình trứng ngược, dài 1,5 đến 2,5 cm, màu xanh và có lông tơ. Bầu nhụy dài 3,5 đến 6,5 cm, màu xanh có lông tơ. Lá đài sau hình trứng rộng có mũi nhọn, dài tử 3 đến 4,5 cm, rộng 3,2 đến 4,8 cm, màu trắng có vân xanh. Các lá đài bên hợp nhất tạo thành một lá đài kép trũng lòng chảo, cũng màu trắng và có vân xanh, song chỉ dài 2,3 đến 3,5 cm và rộng chừng 1,8 đến 2,1 cm. Các cánh hoa hình lưỡi, nhọn đầu, dài 4,6 đến 5,5 cm, rộng tứ đến 1,5 cm. Các cánh hoa đều có lông cứng với những vân xanh, trừ phần riềm là có màu tím pha đỏ. Các cánh hoa luôn luôn cong về phía sau. Môi dài 3,8 đến 4,8 cm, rộng 2,2 đến 2,7 cm, có lông phần riềm trên đầu mút, chúng có ba thùy. Các thùy bên cuộn vào bên trong tạo thành một cái ống, và thùy chính có hình dáng giống như chiếc mũ kết để ngửa. Thùy chính được bao phủ bởi những câu trúc như mụn cóc. Miếng nhụy lép dài 8 đến 10 mm và chiều rộng của nó cũng tương tự. Phần đầu có ba răng, hai răng bên kéo dài ra như hình lưỡi liềm.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Trên các đảo của Philippines. Paphiopedilum hennisianum mọc trên các đảo của Negros và Panay, cũng như ở các đảo nhỏ khác chungg quanh Viasyan Sea. Các cây Lan này mọc trên rêu và những đống lá mục dầy, hoặc nơi có mùn trên nền rừng nguyên sinh, trên độ cao 650 đến 1.050 m.
Mùa ra hoa
Paphiopedilum hennisianum ra hoa vào tháng Giêng qua tháng Bảy, mùa cao điểm là tháng Tư và tháng Năm.
Các biến loài và biến thể
Đây là loài albino mà hoa của chúng là thiếu ánh đỏ. Cũng như trong mọi trường hợp, khởi đầu cây Lan này được mô tả ở cấp độ biến loài (Paphiopedilum hennisianum var. christiansenii Gruβ & Roth Die Orchidee). Cà các cánh hoa cũng như lá đài đều màu trắng với các vân xanh. Môi cũng trắng, hầu như toàn bộ ánh lên màu xanh và những vân xanh. Miếng nhụy lép cũng trắng, nhưng lại có một chỗ có màu xanh đậm. Paphiopedilum hennisianum forma christiansenii trông rất giống với thể albino của Paph. fowliei , ngoại trừ hình dáng của các cánh hoa và hình thể của miếng nhụy lép./.