.Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)
83) Paphiopedilum gigantifolium Braem, Baker & Baker
Trùng tên
Paphiopedilum ayubii hort. ex Parnata
Dẫn nhập
Paphiopedilum gigantifolium đã du nhập vào thị trường châu Âu từ mùa xuân năm 1997, trong một lần nhập về từ đảo Sulawesi. Cây lan được cho là sưu tập trong tháng Giêng cùng năm ấy. Đây là loài Lan vào ngày 14 tháng 5, năm 1997 đã được Braem, Baker & Baker công bố trong báo Orchidées, Culture et Protection của Pháp. Cũng vào tháng 8 năm đó, một người trồng lan có tên là Ayub Parnata ở Bandung, Java, đã công bố một bài báo trong tạp chí của Úc, Australian Orchid Review, đề nghị muốn đặt tên cho loài Lan này bằng tên của ông ấy. Cribb (1997) đã đề nghị rằng bản công bố trước đây của Braem, Baker & Baker là không có giá trị vì “sự mô tả bằng tiếng Latin là không thỏa đáng để cái tên của loài Lan có giá trị”. Ý kiến như vậy là không thể chấp nhận được. Cuối cùng bản công bố đó vẫn tồn tại, bởi những yêu cầu của bảng Quy ước (Code) và những nguyên tắc bất di bất dịch, và dù sao cũng phải thừa nhận bản diễn giải bằng tiếng Latin đó không có đầy đủ các chi tiết để đáp ứng các yêu cầu theo quy định. Mặt khác, ấn bản sau đó của Úc cũng thiếu nhiều tiêu chuẩn có giá trị của một bản công bố (không có diễn giải bằng tiếng Latin, mặc dù vẫn được yêu cầu vào thời kỳ đó, và không xác định chủng loại), và vì thế phải được xử lý như một sự lưu ý của nhà làm vườn mà không có bất kỳ sự phân loại thỏa đáng nào.
Paphiopedilum gigantifolium và Paph. supardii và Paph. rothschildianum có quan hệ gần gũi, nhưng Paph. gigantifolium được chú ý hơn về những đặc điểm từ kích thước lớn của các lá già. Ngoài ra, đặc điểm duy nhất về số lượng hoa, đặc biệt là các cánh hoa, vị trí của lá đài sau, và hình thái học của miếng nhụy lép, và màu trắng của bầu nhụy, những đặc điểm đó chỉ có ở Paph. sanderianum.
Nguồn gốc của tên gọi
Những chiếc lá ngoại cỡ chính là nguyên do loài Lan này có tên là gigantifolium.
Mô tả
Paphiopedilum gigantifolium là một loài cây thảo mộc, chúng mọc ở trên nền rừng, nơi có nhiều lá mục. Lá của chúng đồng nhất một màu xanh, đây là đặc điểm của tất cả các loài Lan trong cùng một giống phụ (sub-genus), nhưng chúng cũng có một chút vân khi đưa chúng ra dưới ánh sáng mặt trời. Lá của nó có chiều dài lên tới 60 cm, rộng 8 cm, cứng cáp với đầu tù. Vòi hoa dài khoảng 60 cm, hình ống, đường kính khoảng 9 mm, màu xanh và được phủ đầy lông màu nâu đỏ. Lá bắc của hoa khá rộng, dài khoảng 6,5 cm, màu xanh, và hai bên gập lại, mỗi bên rộng khoảng 2,2 cm. Ngoại trừ phần đầu, toàn bộ chúng đều được phủ đầy lông màu nâu đỏ. Bầu nhụy có màu trắng. Cây được đưa về làm mẫu có năm hoa, vào thời điểm viết bản mô tả, đã nở được bốn hoa, chỉ còn lại một hoa chưa nở. Theo bản mô tả ban đầu, người ta cho biết có trên một vòi hoa có 14 hoa. Vì vậy có thể kết luận rằng, nếu cây được chăm bón và phát triển tốt thì sẽ cho nhiều hoa. Hoa lớn, đo chiều cao được 6 cm, chiều ngang được 6 cm và sâu 8,5 cm. Những cây này đều đã phát triển tốt và nếu được chăm bón tốt thì hoa có thể sẽ lớn hơn. Chiều sâu của hoa (từ trước ra sau) sở dĩ lớn là do kết cấu của cánh hoa và vị trí của lá đài sau, nó tạo thành một góc 55 độ tính tới cái túi vì vậy nó che phủ một phần các thành tố khác. Lá đài sau có hình ô-van, có chi tiết nhọn trên đầu, lá đài sau có chiều dài là 4,8 cm và rộng 2,4 cm, màu xanh, có vân màu đỏ tía, vân chiếm từ một phần ba đến một nửa lá đài sau. Vân ở mặt ngoài không nổi rõ bằng mặt trong. Lông màu nâu đỏ đậm được phủ đầy ở mặt ngoài. Lá đài kép có hình ô-van hẹp, đầu nhọn, có chiều dài là 4,3 cm và rộng 2,4 cm. Lá đài kép có màu xanh và có những vân chạy theo một phần ba chiều dài. Ở mặt láng phía trong nhìn thấy các đường vân rõ ràng hơn. Lông tơ màu nâu đỏ đậm được phủ đầy ở mặt ngoài. Các cánh hoa có chiều dài tận 8 cm và ở gần chân có chiều rộng là 1,1 cm, phần ngọn hơi tù. Các cánh hoa quăn lên tới đỉnh và cùng với túi tạo thành một góc 55 độ. Màu xanh ngả vàng là màu của cánh hoa, trên đó còn có những chấm màu nâu đỏ không đều nhau, những chấm lớn nhất chạy dọc theo đường trục tâm. Ngoài ra, ở cạnh trên còn có vài chùm lông nhỏ màu nâu đỏ, gần chân của cánh hoa. Cánh giữa có chiều dài là 5,4 cm, phần trên của môi gập lại, dài 3 cm, chiều rộng là 0,8 cm, phần dưới màu xanh cùng màu vàng pha với nhau tạo thành cái túi, dài đến 2,4 cm, rộng 2,3 cm. Cái túi cùng với phần trên đã gập lại đều ánh lên màu nâu đỏ. Cái túi có mặt ngoài láng. Trừ phần đáy cũng như mặt sau nổi lên những hình như lưỡi liềm nhỏ thì mặt trong của túi cũng láng như mặt ngoài. Phần mép gập lại phía bên trên của cánh giữa kéo dài thêm 4 mm vào trong túi. Phần mép trên của túi thì không dài thêm chút nào. Có thể thấy rõ mặt sau của túi bị lõm ở đỉnh. Phần tổng thể miếng nhụy lép có chiều dài là 2,6 cm, chiều rộng 1,4 cm và chiều sâu 1,2 cm. Riêng miếng nhụy lép chỉ dài 1,7 cm, chiều rộng 1,4 cm và chiều sâu 0,6 cm. Miếng nhụy lép ở mặt trước có hình chữ nhật, phần trên thì tròn, diềm dưới nhẵn và có một chỗ thắt eo rộng. Miếng nhụy lép có màu trắng, nâu đó ở gần mép, phủ lông tơ màu nâu.
Phân bố và thói quen sinh trưởng
Paphiopediulum gigantifolium được tìm thấy chủ yếu ở miền bắc đảo Indonesian của Sulawesi, trong vành đai Dongala. Loài lan này ưa mọc ở những nơi có bóng râm trong các khe núi ở độ cao 700 m. Người ta luôn tìm thấy chúng quanh vùng có nước chảy.
Mùa ra hoa
Từ tháng Tư tới tháng Bảy là thời gian ra hoa của Paphiopedilum gigantifolium.